Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa. Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó Nay, Hoàng đậy Ngọc Tường đã góp thêm 1 áng văn xuôi viết về sông Hương- dòng sông mang nặng tình yêu với nỗi lưu giữ của người sáng tác qua tùy bút lừng danh "Ai vẫn đặt thương hiệu cho chiếc sông". Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sau khi học hết bậc trung học ở Huế, năm 1960 ông tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán, Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964 Phân tích sông Hương đoạn chảy qua thành phố Huế Đề số 2: Cảm nhận đoạn văn sau trong tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" - HP Ngọc Tường: "Từ đây như tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên […] một nỗi lòng" Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm Riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn đã không dừng lại ngắm nhìn khung cảnh kinh thành với vẻ sang chảnh, cổ lính của sông Hương tỏng kinh thành Huế. Đặt dòng sông trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn, nhà văn đã biểu lộ cảm hứng mày mò, cắt nghĩa và lí giải cùng cái nhìn thâm thúy về cuội nguồn. iZRqI. 1. Hướng dẫn phân Phân tích Hệ thống luận Sơ đồ tư Lập dàn ý2. Một số bài văn tham khảo bài số bài số bài số 3Tài liệu hướng dẫn phân tích vẻ đẹp sông Hương trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông, gợi ý cách làm, phân tích đề, sơ đồ tư duy kèm một số bài văn mẫu tham khảo phân tích những nét đẹp của sông Hương qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông Hoàng Phủ Ngọc Tường.Bạn đang xem Thủy trình của sông hươngĐề bài Phân tích vẻ đẹp dòng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông Hoàng Phủ Ngọc Tường.Hướng dẫn phân tích vẻ đẹp sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sôngXem chi tiết Sơ đồ tư duy Ai đã đặt tên cho dòng sông4. Lập dàn ýa Mở bài- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm+ Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn của xứ Huế chuyên viết về bút kí, có sức liên tưởng tưởng tượng dồi dào, lối hành văn mê đắm.+ Dòng sông đổi dòng liên tục – như một sự trăn trở “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm …”, “sông Hương đi trong dư vang của Trường Sơn, vòng qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản…”+ Màu nước biến ảo sớm xanh, trưa vàng, chiều tím – tím Huế.+ Nhịp chảy chậm rãi, “mềm như tấm lụa”+ Từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ mang dáng vẻ trầm mặc khi chảy qua những lăng tẩm, đổi dòng chuyển hướng liên tục.+ Từ chân đồi Thiên Mụ đến lúc gặp Huế “vui hẳn lên”, “kéo một nét thẳng” vì tìm đúng đường về+ Giáp mặt Huế, sông Hương không gặp Huế ngay mà “uốn một cánh cung... tình yêu” như một người con gái bẽn lẽn, ngại Khi chảy vào lòng thành phố+ Tác giả so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới, sông Hương chỉ thuộc về một thành phố duy nhất, giống như người con gái chung thủy.+ Sông Hương mang đến cho Huế một vẻ đẹp cổ xưa dân dã “ánh lửa thuyền chài ... xưa cũ”, trôi đi chậm như một mặt hồ.+ Người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.+ Sông Hương trong cảm nhận hội họa“Sông Hương vui tươi hẳn lên… đông bắc” -> sông Hương như một thực thể sống động, có niềm tin, tâm trạng khi tìm lại được chính mình.“Chiếc cầu trắng… lời của tình yêu” -> vẻ đẹp thanh thoát của sông Hương và cầu Tràng Tiền“Không giống như sông Xen… yêu quý của mình” -> tác giả tự hào khi so sánh sông Hương với các con sông nổi tiếng trên thế giới.+ Sông Hương trong cảm nhận âm nhạcSông Hương - “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình. -> chất âm nhạc thể hiện ở nhịp điệu êm đềm của bài bút kí bởi những câu văn dài nối tiếp Khi rời thành phố+ “Rời khỏi kinh thành… thị trấn Bao Vinh xưa cổ…”-> Từ biệt Huế ra biển, sông Hương giống như một người tình bịn rịn, lưu luyến khi tạm biệt cố nhân.=> Tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.=> Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ nhà văn đều thể hiện cảm nghĩ sâu sắc mới mẻ về non sông. Qua đó, ta thấy được tình cảm yêu mến thiết tha, niềm tự hào và một thái độ trân trọng gìn giữ đối với vẻ đẹp tự nhiên đậm màu sắc văn hóa của nhà văn với dòng sông quê điểm 2 Sông Hương trong cái nhìn của lịch sử- Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX,...- Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất nước “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”,...- Là một người con gái anh hùng cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng Tám,...=> Sông Hương trở thành dòng linh giang của tổ quốc, chứng nhân lịch sử cho bao sự kiện thăng trầm của dân tộc, là dòng sông của thời gian ngân vang của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh thêm Giải Vở Bài Tập Toán Lớp 5 Tập 1 Bài 19 Luyện Tập, Giải Vở Bt Toán 5 Bài 19 Luyện Tập Trang 25Luận điểm 3 Sông Hương nhìn ở góc độ văn hóa- Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở” toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi Là dòng sông thi ca, là cảm hứng bất tận cho các nhà văn nghệ sĩ+ “Dòng sông trắng - lá cây xanh” trong cái nhìn của Tản Đà+ ”Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát.* Đặc sắc nghệ thuật- Liên tưởng độc đáo- Sử dụng từ ngữ đặc sắc, văn phong tao nhã- Nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hươngc Kết bài- Đánh giá khái quát lại vẻ đẹp dòng sông Hương- Nêu cảm nhận của em Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế cũng như đất ý so sánh vẻ đẹp sông Đà trong Người lái đò sông Đà và sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sôngBên cạnh việc xây dựng dàn ý chi tiết cho bài văn phân tích vẻ đẹp sông Hương trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông, các em nên đọc thêm nhiều bài văn mẫu hay để củng cố kiến thức, mở rộng vốn từ và kĩ năng trình bày. Dưới đây là một số bài văn phân tích hay mà Đọc Tài Liệu muốn giới thiệu tới các em, cùng tham khảo nhé !Một số bài văn tham khảo hay phân tích vẻ đẹp dòng sông Hương Tiểu sử Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là ai? Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn của văn học Việt Nam. Ông từng là Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên-Huế, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Năm 2007, ông với vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Đánh giá về sự nghiệp văn chương của ông, sách Ngữ văn 12 có đoạn viết "Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí... Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa". Các tác phẩm thể loại bút ký 1. Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu 1971. 2. Rất nhiều ánh lửa 1979, Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam 1980-1981 3. Ai đã đặt tên cho dòng sông, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 1984 4. Bản di chúc của cỏ lau truyện ký, 1984 5. Hoa trái quanh tôi 1995 6. Huế - di tích và con người 1995 7. Ngọn núi ảo ảnh 2000 8. Trong mắt tôi bút ký phê bình, 2001 9. Rượu hồng đào chưa uống đã say truyện ký, 2001 10. Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé bút ký văn hóa, 2005 11. Miền cỏ thơm 2007 12. Ai đã đặt tên cho dòng sông. Tinh tuyển bút ký hay nhất, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2010 Thể loại thơNhững dấu chân qua thành phốNgười hái phù dungThể loại nhàn đàmNhàn đàm - Nhà xuất bản Trẻ, 1997Người ham chơi - Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1998Miền gái đẹp - Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2001 Tặng thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam 2001 Giải thưởng cao quý - Năm 1980, nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam - Tặng thưởng Văn học Ủy ban toàn quốc LH các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam các năm 1999 và 2008. - Giải A giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô 1998-2003. - Năm 2007, nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Thời trẻ/ khi chưa nổi tiếng Nhạc sĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán, Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng Cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960-1966 dạy tại trường Quốc Học Huế. Năm 1966-1975 thoát ly lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng hoạt động văn nghệ. Năm 1978 được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt đây, có nhiều nghi vấn về "vụ thảm sát nhiều người dân Huế dịp Tết Mậu Thân năm 1968" có liên quan đến nhạc sĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường, cùng em trai là Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã khẳng định là trong suốt thời gian chiến dịch, Hoàng Phủ Ngọc Tường ở chiến khu tại địa đạo Khe Trái trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà để làm công việc của Mặt trận Giải phóng, cho nên chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường tham gia tàn sát là điều bịa đặt. Cuộc sống gia đình Ông kết hôn cùng vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Ông bà sinh được hai con gái là Hoàng Dạ Thư, làm việc tại Nhà xuất bản Trẻ và Hoàng Dạ Thi từng làm thơ, viết văn hiện đã định cư tại Mỹ. Từ năm 2012, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và vợ đang cư ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Các mối quan hệ thân thiết Bạn gái/ vợ/ người yêu Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là ai? Ông là chồng của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ Chiều cao cân nặng Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cao bao nhiêu, nặng bao nhiêu? Chiều cao đang cập nhậtCân nặng đang cập nhậtSố đo 3 vòng đang cập nhật Tóm tắt lý lịch Hoàng Phủ Ngọc Tường Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm bao nhiêu, bao nhiêu tuổi? Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9-9-1937 86 tuổi. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ở đâu, con giáp/ cung hoàng đạo gì? Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra tại Tỉnh Thừa Thiên Huế, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Xử Nữ, cầm tinh con giáp trâu Đinh Sửu 1937. Hoàng Phủ Ngọc Tường xếp hạng nổi tiếng thứ 73882 trên thế giới và thứ 91 trong danh sách Nhà văn nổi tiếng. Những người nổi tiếng tên TườngNhững người nổi tiếng tên Ngọc TườngNhững người nổi tiếng tên Phủ Ngọc TườngNhững người nổi tiếng tên Hoàng Phủ Ngọc Tường Người nổi tiếng theo ngày sinh / Một số hình ảnh về Hoàng Phủ Ngọc Tường Chân dung Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc TườngMột bức ảnh mới về Hoàng Phủ Ngọc Tường- Nhà văn nổi tiếng Thừa Thiên Huế- Việt NamHình ảnh mới nhất về Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bảng xếp hạng Bình luận Bình luận Tên bạn Nội dung Các sự kiện năm 1937 và ngày 9-9 Các sự kiện thế giới vào năm sinh Hoàng Phủ Ngọc Tường Ý rút khỏi Liên đoàn các quốc gia. Hoa Kỳ pháo hạm Panay bị quân Nhật đánh chìm ở sông Dương Tử. Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, xâm chiếm hầu hết các khu vực ven biển. Anh bắt đầu số điện thoại khẩn cấp 999. Hoa Kỳ bắt đầu dịch vụ 911 tại New York vào năm 1968. Ngày sinh Hoàng Phủ Ngọc Tường 9-9 trong lịch sử Ngày 9-9 năm 1776 Quốc hội Lục địa lần thứ hai đã đổi tên quốc gia từ "Thuộc địa thống nhất" thành "Hợp chủng quốc Hoa Kỳ". Ngày 9-9 năm 1850 California trở thành tiểu bang thứ 31 theo hiến pháp của Hoa Kỳ. Ngày 9-9 năm 1893 Con gái của Tổng thống Grover Cleveland, Esther Cleveland, trở thành đứa con đầu tiên của tổng thống được sinh ra trong Nhà Trắng. Ngày 9-9 năm 1926 National Broadcasting Company NBC được thành lập bởi Radio Corporation of America. Ngày 9-9 năm 1948 Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Triều Tiên được thành lập. Ngày 9-9 năm 1956 Elvis Presley xuất hiện trên truyền hình lần đầu tiên trong chương trình The Ed Sullivan Show. Ngày 9-9 năm 1976 Lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông qua đời ở Bắc Kinh ở tuổi 82. Hiển thị toàn bộ Các Nhà văn nổi tiếng khác Người nổi tiếng sinh ở Thừa Thiên Huế Ghi chú về Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Thông tin/ profile đầy đủ và mới nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cập nhật liên tục. Các thông tin về Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể chưa đủ hoặc chưa chính xác và chỉ mang tính tham khảo, nếu bạn thấy thông tin là chưa chính xác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email Nếu Nguyễn Tuân được mệnh danh là bậc thầy tùy bút với Người lái đò sông Đà thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nổi tiếng với Ai đã đặt tên cho dòng sông và nhiều bút ký khác như Rượu hồng đào chưa uống đã say, Miền cỏ thơm hay Rất nhiều ánh lửa. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình cùng lối hành văn hướng nội đầy mê đắm, tài hoa. Qua những tác phẩm của mình, nhà văn đã khéo léo gửi gắm nhiều tình cảm sâu kín về gia đình, đất nước, đặc biệt là xứ Huế thân thương từng gắn bó máu thịt với bản thân, nơi đây đã trở thành bến đỗ bình yên của ông và vợ mỗi khi trở về. Đôi nét về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Sinh năm 1937 và lớn lên tại Huế nhưng quê gốc của ông lại ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sau khi tốt nghiệp ban Việt Hán thuộc trường Sư phạm Sài Gòn, nhà văn tiếp tục theo đuổi triết học và nhận được bằng cử nhân tại trường Đại học Văn khoa Huế. Trong những năm đầu của thập niên sáu mươi, Hoàng Phủ Ngọc Tường giảng dạy tại trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học Huế. Sau đó, ông chia xa gia đình để lên chiến khu, tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thông qua hoạt động văn học nghệ thuật. Chân dung nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Cùng với nhiệt huyết và tài năng của mình, ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam và từng nắm giữ nhiều chức vụ như tổng thư ký, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên hay tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút đa tài với các thiên bút ký vừa trữ tình, thâm trầm vừa độc đáo, tài hoa. Không những thế, mỗi áng thơ sâu lắng, lãng mạn mang tên ông còn để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả. Năm 2007, tác giả được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho những đóng góp lớn của mình vào kho tàng văn học Việt. Nổi bật trong số đó có tác phẩm Rất nhiều ánh lửa với giải thưởng Văn học Hội nhà văn Việt Nam hay Ai đã đặt tên cho dòng sông được tinh tuyển là một trong những bút ký hay nhất. Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút ký chuyên nghiệp của văn học Việt Nam Ngoài ra, nhà văn còn nhận được giải thưởng Văn học Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô Huế và giải thưởng văn học nghệ thuật Chế Lan Viên tỉnh Quảng Trị lần thứ nhất. Nhà văn đi cùng những dòng sông kỷ niệm Tuổi thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn gắn liền với thành phố Huế mộng mơ và dòng Hương Giang lung linh, biến ảo. Chính nó đã nuôi dưỡng mạch máu văn chương nơi tâm hồn nhà văn, khơi nguồn cảm hứng bất tận giúp ông viết nên những trang tùy bút đầu tiên. Ký ức về sông Hương luôn đẹp đẽ và vẹn nguyên trong trái tim ông mỗi khi nhớ về. “Những kỷ niệm thời ấu thơ như những đêm nghe ca Huế dù đã cách nay hơn nửa thế kỷ nhưng tôi vẫn không quên. Ngày đó những đêm ca Huế không sân khấu đèn màu, không micro, người nghe ngồi bệt dưới nền đất để thưởng thức âm nhạc…Những kỷ niệm dung dị đó đã ám ảnh suốt những năm tháng tôi xa sông Hương sau này, để bài ký đầu tiên trong cuộc đời sáng tác của tôi là con sông quê hương.” – Hoàng Phủ Ngọc Tường Đa phần các sáng tác của nhà văn đều mang đậm dấu ấn của sông Hương, nổi bật là các tác phẩm như Ai đã đặt tên cho dòng sông, Sử thi buồn hay Hoa trái quanh tôi. Nếu Nguyễn Tuân được tôn vinh là người thợ kim hoàn chữ nghĩa hay cây bút quái kiệt với những thiên tùy bút độc đáo, sắc sảo của nền văn học Việt Nam thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại là bậc thầy chuyên về bút ký, có lối hành văn hướng nội, mê đắm và tài hoa. Ảnh bìa cuốn sách Ai đã đặt tên cho dòng sông tác phẩm nổi bật của Hoàng Phủ Ngọc Tường Qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông, độc giả có thể thấy rõ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất uyên bác trong việc kết hợp một cách nhuần nhuyễn ở nhiều lĩnh vực khác nhau, từ lịch sử, địa lý đến triết học, văn hóa. Bằng sự quan sát tỉ mỉ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, các khía cạnh đa chiều của dòng Hương Giang cũng được khám phá, diễn tả một cách mới mẻ và vô cùng khéo léo, tinh tế. “Như một người đã chiêm nghiệm trong im lặng và trong sương khói chỉ để giữ lại những nét đẹp sâu thẳm của thiên nhiên, từ dưới đáy kinh nghiệm của một đời cầm bút, tôi đã không ngần ngại gửi tâm hồn mình vào tác phẩm, vẽ lại đời mình bằng màu nước của dòng sông, nó xanh biếc và yên tĩnh như một lẽ vĩnh hằng trong cảnh vật cố đô.” – Hoàng Phủ Ngọc Tường Nếu trong lòng thành phố Huế, sông Hương như cô gái e lệ, dịu dàng, quyến luyến không nỡ rời người tình trong mộng của nó thì lúc ở thượng nguồn, Hương Giang lại là một cô gái Digan phóng khoáng và man dại giữa núi rừng, khởi nguồn cho dòng nước ngọt âm thầm tỏa đi khắp đô thị. Dòng sông Hương nơi khơi nguồn của hứng sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường Sông Hương không chỉ mang vẻ đẹp kiều diễm của người con gái xứ Huế trong làn sương mờ ảo có đầy đủ cảm xúc, tính cách riêng mà đó còn là nơi lưu giữ những câu hò điệu lý, vần thơ ngân nga đại diện cho miền văn hóa đặc trưng của mảnh đất Cố đô. Gánh vác trên vai trọng trách bảo bọc cho Huế, dòng sông huyền thoại của thành phố luôn tràn đầy tình yêu nước và lòng tự hào dân tộc được bồi đắp qua hàng nghìn năm lịch sử. Bằng ngôn từ giàu hình ảnh và nhiều biện pháp so sánh, ẩn dụ độc đáo cùng lối hành văn tao nhã, Ai đã đặt tên cho dòng sông đã thành công để lại trong lòng người đọc ấn tượng về một bức họa tuyệt đẹp của dòng Hương Giang xứ Huế xưa. “Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hoá và lịch sử của các điều kiện đời sống… Văn anh giàu những tư liệu lấy từ sử sách tri thức khoa học và huyền thoại kí ức cá nhân lóe lên những ánh sáng bất ngờ… Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá bình diện văn hoá với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn.” – Trần Đình Sử Trong tác phẩm Sử thi buồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại một lần nữa cho ta nghe thấy những giai điệu của dòng sông quê đầy hoang dại, mộc mạc. Đã có bài ca trong trẻo được vang lên như réo rắt khắp núi rừng A Lu, chất chứa trong mình nhiều tâm tư nặng trĩu. Ảnh bìa cuốn sách Người ham chơi của Hoàng Phủ Ngọc Tường Mặc dù đã đi đến nhiều nơi, tận mắt tham quan vô số dòng sông nổi tiếng trên thế giới nhưng con sông quê luôn để lại nhiều cảm xúc đặc biệt trong lòng nhà văn. Ông xem nó là những ký ức đáng trân trọng, là niềm cổ vũ tinh thần giúp bản thân vượt qua khó khăn, biến cố trong cuộc sống. “Tôi nhớ những con sóng vỗ bờ, vỗ mạn thuyền những đêm nằm thao thức. Đã xa rồi, đã lâu rồi không nghe lại tiếng sóng thân quen ấy, nhưng dường như những tiếng sóng ấy đã tạo cho tôi ý chí vươn lên trong cuộc sống.” – Hoàng Phủ Ngọc Tường Niềm thương nhớ và hoài niệm về con sông gắn bó máu thịt với mình đã tạo nên một Hoàng Phủ Ngọc Tường miệt mài, không ngơi nghỉ trên dòng chảy nghệ thuật để đóng góp cho đời những áng thơ văn rung động, thiết tha. Có một cây bút chan chứa tình cảm mang tên Hoàng Phủ Ngọc Tường Vào một đêm khuya mùa hè những năm cuối cùng của thế kỷ XX, nhà văn đột ngột bị tai biến và được chẩn đoán có khả năng bị liệt tay chân. Tưởng chừng Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ đầu hàng số phận và từ bỏ nghề bút giấy nhưng ông lại cho rằng, đây là thời gian để viết hết những điều mà mình ấp ủ bao lâu nay và hoàn thành các công việc vẫn còn đang dang dở. Mỗi ngày, ông đều miệt mài sáng tác bằng cách đọc lên suy nghĩ của mình và nhờ vợ là bà Lâm Thị Mỹ Dạ ghi chép lại, sau đó ông tỉ mỉ nghe lại và chỉnh sửa từng câu. Đã nhiều năm kể từ khi nhà văn bị bệnh cho đến nay, hàng trăm trang văn vẫn được đều đặn viết nên như thế. Ông từng tâm sự rằng “Không thể đi đây, đi đó được nữa nên chỉ còn cách nhớ lại những kỉ niệm, kể lại những câu chuyện mà mình từng chứng kiến trong những năm tháng rong ruổi dọc đất nước, dọc những dòng sông.” Đọc những trang văn do Hoàng Phủ Ngọc Tường chắp bút, ta luôn thấy được tình yêu của ông dành cho văn chương cũng như quê hương mình là vô cùng lớn lao, chân thành và son sắt. Bên cạnh đó, các tác phẩm mang tên ông còn thắp lên trong lòng người đọc “rất nhiều ánh lửa” của sự hy vọng và thứ tình cảm luôn dạt dào dành cho tổ quốc, quê hương. Ảnh bìa cuốn sách Người hái phù dung của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Bên cạnh những thiên bút ký uyên bác, chân thực và đậm chất trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì thơ ông viết lại có phần tĩnh tại hơn, nó như một tấm gương phản chiếu rõ nét nội tâm và xúc cảm nhà văn. “Nhà tôi ở phố Đạm Tiên Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu Có mùi hương cỏ đêm sâu Có loài hoa biết nuôi sầu tháng năm Tôi về ngủ dưới vầng trăng Có em từ chỗ vĩnh hằng nhìn tôi Tình xa, xa mãi trong đời Tóc xanh tiên nữ rối bời trên tay Tôi còn ngọn nến hao gầy Chảy như nước mắt từ ngày sơ sinh Tôi xin em chút lòng thành Cài lên một phiến u tình làm hoa – Địa chỉ buồn Mỗi dòng thơ như một nốt nhạc, tất cả đều tạo thành từng bài ca ngân nga rung động lòng người và trong đó luôn phảng phất những nỗi buồn sâu kín, đó là tấm lòng trăn trở, suy nghiệm của nhà văn về bản thân cũng như cuộc đời. Toàn bộ tri thức của Hoàng Phủ Ngọc Tường đều được thể hiện thông qua việc sống, xê dịch và chiêm nghiệm kết hợp với tấm lòng đầy xúc cảm đã kết tinh nên những trang viết cuốn hút, mê đắm và tài hoa. Với những giá trị quý báu mà nhà văn gửi gắm qua mỗi tác phẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thành công trong việc khẳng định tên tuổi của mình. Với vai trò là cây bút ký chuyên nghiệp của văn học Việt Nam, ông thắp lên trong lòng người đọc niềm trân trọng và biết ơn quê hương xứ sở và những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời của đất nước mình. Khả Di Đọng lại trong nghiệp văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường là thể ký. Không chỉ về số lượng trong 16 tác phẩm chính đã xuất bản, thể ký chiếm 14 ấn phẩm, 2 ấn phẩm còn lại là thơ, mà ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất đẹp – đẹp về nội dung và đẹp cả về hình thức biểu đang xem Sông hương hoàng phủ ngọc tườngNếu Nguyễn Tuân “viết tùy bút như một công trình khoa học” theo Phan Ngọc, thì ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là những thi phẩm văn xuôi với nhiều cung bậc của cảm xúc và lý trí hoà quyện. Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, văn chương của mỗi người có phong cách riêng, đã góp phần quan trọng khẳng định ký là một thể loại đặc sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt có ý nghĩa trong tiến trình làm giàu và làm đẹp tiếng văn Hoàng Phủ Ngọc TườngHoàng Phủ Ngọc Tường “đã chọn bút ký là thể loại văn xuôi tiêu biểu… là duy nhất và không thể thay thế được”, như ông tâm sự về nghề văn. Đó là một lựa chọn có nền tảng – nền tảng của học vấn, của chiêm nghiệm và hơn nữa là nền tảng của tâm Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sau khi học hết bậc trung học ở Huế, năm 1960 ông tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán, Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận bằng Cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Từ năm 1960 đến năm 1966 ông dạy học tại trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học Huế. Từ năm 1966 đến 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ly gia đình lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng hoạt động văn nghệ – đây có thể coi là thời điểm tạo bước ngoặt để ông dấn thân cho văn động văn nghệ trong kháng chiến chống Mỹ là thời gian Hoàng Phủ Ngọc Tường có điều kiện thâm nhập thực tế nhiều địa phương, tiếp xúc nhiều hoàn cảnh, nhiều nhân vật. Thực tế đã cung cấp cho ông những góc nhìn mới, cách cảm mới, làm chất xúc tác cho sự chiêm nghiệm trong ông ngày thêm dày dặn, thêm sâu sắc, cả về tri thức lẫn cảm xúc, để từ đó kết tinh thành những tác phẩm ký chứa đựng sự thăng hoa trong bút pháp của người nghệ sỹ ngôn ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn cho tôi cảm giác thú vị, lần đọc sau cảm giác thú vị lại đậm đà hơn, “cá biệt” hơn. Thực tại trong ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường không dừng lại ở sự mô tả mà loang ra, trộn vào quá khứ gần quá khứ xa, để rồi trồi lên khát tính triết học trong ông không miệt mài lý giải mà nhường chỗ cho trực giác dịch biến để thức nhận cái hoàn mỹ của các hiện tượng và sự vật trong sự giàng buộc lẫn viết văn không thể thiếu ký ức, bởi ký ức là nguồn cảm hứng đặc biệt. Ký ức không phải là quá khứ, cũng không phải là kinh nghiệm, mà là quá trình tích luỹ và rèn luyện xúc cảm trước những cái nhìn thấy và cả những cái không nhìn thấy, nhào luyện nó và nén nó lại, nuôi dưỡng nó cho tâm hồn luôn ở trạng thái rung động có ý thức, từ tự phát đến tự giác của khả năng nhạy cảm. Do đó,ngẫu nhiên không phải là thuộc tính của ký ức. Ký ức là một nguồn năng lượng,cũng là năng lực, khác nhau ở mỗi nuôi dưỡng và khai thác ký ức trong lao động sáng tạo nghệ thuật không giống nhau ở từng ức luôn luôn vận động và sẵn sàng gia nhập tương lai khi người ta ý thức và chủ động đưa nó vào cuộc sáng tạo. Nói cách khác, ký ức là quá trình tổng hợp nền tảng tri thức bền vững và sức tưởng tượng bay bổng, làm nên tác phẩm mang đặc tính riêng của một tác giả có phong cách độc Phủ Ngọc Tường là một tác giả biết chắt chiu, nuôi dưỡng và sử dụng ký ức hiệu quả. Trong mỗi tác phẩm ký của ông, ký ức thực sự là nhân tố gắn kết vững chắc các yếu tố hình thành nên tác phẩm. Hoàng Phủ Ngọc Tường tâm sự “Những ý niệm hình thành trong tuổi thơ của tôi chiếm một vai trò quan trọng trong vốn liếng văn hoá của đời người … Qua cát bụi đi hoài mỏi chân, ý niệm kia đã đâm chồi nảy lộc trong tâm thức tôi thành nỗi khát khao về Vĩnh Hằng”, từ đó ông khẳng định “văn hoá là báu vật dành cho con người”, và cho rằng “Người ta hoàn toàn có khả năng tái sinh văn hoá thiên nhiên của Bạch Mã bằng cách bố trí lại cơ cấu cây trồng’ như thường nói”. Không dừng lại ở những kỷ niệm, bằng những chiêm nghiệm và kiến văn sâu rộng, Hoàng Phủ Ngọc Tường dựng nên tác phẩm ký Ngọn núi ảo ảnh đẹp như một bức khảm vỏ trai, vỏ ốc hài hoà và tinh xảo, bất kỳ ở góc nhìn nào cũng đều thấy ánh lên độ sáng vừa thực vừa ảo. Những ký ức xa-gần, xen kẽ, của tác giả về Bạch Mã – một dãy núicách Huế 40 km về phía nam và cách Đà Nẵng 60 km về phía bắc, để lại trong lòng người đọc một ký ức dày dặn về một địa danh không phải bất cứ ai cũng có điều kiện chiêm ngưỡng cảnh đẹp hùng vĩ và hiểu biết nhiều về “thân phận” thăng trầm qua những biến cố tự thân cũng như ngoại lực tác động thường xuyên. Trong cái đẹp toàn thể, bật lên cái đẹp khao khát của tác giả ngẫm về cuộc đổi thay “số phận” của Bạch Mã, mà trước hết trông chờ vào chính sự thay đổi ý thức và tư duy của con người đối với thiên nhiên. Cuối tác phẩm Ngọn núi ảo ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường hạ một nốt trầm ngân nga “Bạch Mã như là một thành phố ảo ảnh trong sa mạc, huy hoàng phút chốc rồi tan biến, chỉ còn lại một bóng núi lau mờ…”. Chính nốt trầm này gõ vào lòng trắc ẩn của người đọc, xua đuổi sự thờ ơ, trỗi dậy niềm hy vọng có đủ căn cứ nhân Phủ Ngọc Tường là người kể chuyện bằng thể ký. Bám sát các sự kiện, các nhân vật một cách chân thực, nhưng không lệ thuộc, ông thổi vào đối tượng điệu hồn mang cốt cách của những thực thể, mà tính cá thể ấy vận động trong tổng thể xác định không thể tách rời. Không để lại dấu vết hư cấu, bút pháp ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không che khuất nghệ thuật cấu trúc truyện cũng như nghệ thuật nhân cách hoá và ẩn dụ của thơ. Chẳng hạn, như trong“Diễm xưa” của tôi, Kon Lai và Kan Sao là hai nhân vật “đậm đà”, trong khi Kon Lai kỳ lạ như “một cây tùng cổ, đã quên già để sống không cần biết tuổi”, thì Kan Sao là người con gái đẹp có “nụ cười hoa ngâu và đôi mắt nai dịu dàng của Huế”. Và, Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành người con của Huế từ khi nào chẳng nhớ, chỉ biết rằng Huế là nhân vật trữ tình kiều diễm nhất trong đời văn của bó với Huế từ lâu, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn “bỗng” nhận ra Huế là một thành phố lạ lùng “Mơ mộng, lười biếng như nàng công chúa sầu muộn, để chợtnhiênnổi giận, thách thức như một lời hịch tuyên chiến. Hình như trong mỗi người Huế-ham-chơi vẫn tiềm ẩn một cái tôi thứ hai’ sẵn sàng nhày vào lửa” Hành lang của người và gió….Hai “tính cách” ấy của Huế chịu ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài từ dòng Hương giang, không chỉ ở khúc sông chảy trong lòng chiều dài từ thượng nguồn ra đến cửa biển, sông Hương bồi đắp cho thành phố bề dày với những nét đẹp vừa lộng lẫy vừa phảng phất, níu kéo biết bao tâm hồn thổn thức, để lại cho đời người câu chuyện huyền thoại về cái tên vừa mỏng của “dòng sông trắng – lá cây xanh” Tản Đà vừa sắc lẹm “như kiếm dựng trời xanh” Cao Bá Quát, rằng “vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông, để làn nước thơm tho mãi mãi” Ai đã đặt tên cho dòng sông. Không dừng lại ở đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhập vào dòng chảy của con sông “rất nhạy cảm với ánh sáng, nó thay màu nhiều lần trong một ngày như hoa phù dung và đôi khi màu nước không biết từ đâu mà có, không giống với màu của trời”, để từ đó nhận ra “Cuối Hè, Huế thường có những buổi chiều tím, tím cầu, tím áo, cả ly rượu đang uống trên môi cũng chuyển thành màu tím; và sông Hương trở thành dòng sông tím sẫm hoang đường như trong tranh siêu thực” – màu tím Huế trở thành “dấu hiệu của một nội tâm trong sáng, giàu có nhưng gìn giữ để không bộc lộ nhiều ra bên ngoài, vì thế với người phụ nữ Huế, màu tím ấy vừa là màu áo, vừa là đức hạnh” Sử thi buồn.Một trong những ấn tượng nổi trội ở các tác phẩm ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường làtình yêu thiên nhiên, một tình yêu luôn luôn là bà đỡ để ông cảm thụ và đem lòng yêu từng chi tiết của mỗi mảnh đất cụ thể. Ông viết “Nhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ”, và “Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế” Miền cỏ thơm. Phải có hiểu biết và chiêm nghiệm sâu sắc mới có thể biểu tả thành cảm xúc như thế. Trong Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhiều đúc kết tinh tế về Huế, rằng “Có lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là bản sắc Huế’. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại”. Điều đó phù hợp với bản chất thống nhất và phân hoá trong mối quan hệ hữu cơ giữa con người và thiên nhiên tính đặc thù ở mỗi cảnh quan tự nhiên vị trí địa lý, đất đai, khí hậu… là điều kiện cần thiết để con người xác lập cho xứ sở của mình một cảnh quan văn hoá riêng. Và, ở đoạn văn tiếp sau, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận xét rất nhân bản, rằng “Hình như khi xây dựng nên đô thị của mình, người Huế không bộc lộ cái ham muốn chế ngự thiên nhiên theo cách người Hy Lạp và La Mã, mà chỉ tìm cách tổ chức thiên nhiên trở thành một kẻ có văn hoá để có thể tham dự một cách hài hoà vào cuộc sống của con người, cả bên ngoài và bên trong”. Nhìn rộng ra, cách “tổ chức thiên nhiên trở thành một kẻ có văn hoá” là đặc điểm căn bản của người Việt trong tiến trình xây dựng và khẳng định bản sắc văn hoá trên phạm vi lãnh thổ cư trú của mình qua lịch sử nhiều biến động. Tính cách ấy người Huế thể hiện có phần khu biệt qua quan sát của Hoàng Phủ Ngọc Tường “sẽ là vô ích nếu người ta định tìm kiếm ở Huế những khu vườn cao sản kiểu vựa trái của miền Đông Nam Bộ, và nếu người ta quên không nhìn đến diện mạo văn hoá của cái thế giới thực vật nho nhỏ kia”, bởi “Người Huế lập vườn, trước hết như là nơi cư ngụ của tâm hồn mình giữa thế gian, ước mong sẽ là chút di sản tinh thần để đời cho con cháu”. Khó có ai yêu và thấu hiểu Huế một cách ngọn ngành, căn cơ sánh bằng Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tình yêu ấy thúc giục cái ký ức tổng thể trong ông trỗi dậy, nhẩn nha điểm xuyết tất cả những gì lắng đọng trong tâm hồn ông phát lộ thành ngôn ngữ văn chương, phảng phất mà chắc nịch, hối hả mà trầm tư “Tôi nhận ra ở mỗi con người quanh tôi, trĩu nặng một nỗi lòng thương cây nhớ cội, và nét điềm tĩnh của mảnh đất mà họ đã cày cuốc và gieo hạt”.Con người và thiên nhiên trong ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường quấn quýt và nâng đỡ nhau như hình với bóng. Bằng kiến văn của mình, ông chứng minh trên nền tảng thiên nhiên ấy, trí tuệ và sức vóc con người Huế đã kiến tạo nên một vùng văn hoá Huế, mà thành phố Huế là nhân lõi, chứa đựng nhiều tầng, nhiều lớp đặc trưng của lịch sử hình thành và phát triển, vừa thống nhất với đặc điểm văn hoá dân tộc vừa mang những sắc thái riêng, độc đáo và thi vị. Ký ức của Hoàng Phủ Ngọc Tườngmang đầy đủ các yếu tố địa-sử-văn-triết và qua cách biểu cảm ông đã tạo nên những tác phẩm có chiều sâu văn hoá. Trong tư duy sáng tạo nghệ thuật, Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự coi trọng yếu tố địa lý, xem các thành tố của thiên nhiên là những thực thể, đưa chúng vào cùng vận động với sự chuyển biến của tác phẩm, chứ không chỉ “mượn” thiên nhiên nhằm làm “đẹp” tác phẩm như ở khá nhiều người viết khác. Đặc điểm này góp phần cấu thành nên phong cách ký Hoàng Phủ Ngọc thêm Hệ Số Góc Của Tiếp Tuyến - Tổng Hợp Trắc Nghiệm Dạng Toán Về Tiếp TuyếnKý của Hoàng Phủ Ngọc Tường đẹp từ trong tư duy và vì thế đẹp cả trong cách thể hiện, với sự chặt chẽ của cấu trúc và sự trong sáng của ngôn ngữ. Đọc các tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi học được nhiều điều bổ ích, bởi ông là người thổi hồn vào thể ký. Đọng lại trong nghiệp văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường là thể ký. Không chỉ về số lượng trong 16 tác phẩm chính đã xuất bản, thể ký chiếm 14 ấn phẩm, 2 ấn phẩm còn lại là thơ, mà ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất đẹp – đẹp về nội dung và đẹp cả về hình thức biểu đang xem Hoàng phủ ngọc tường sông hươngNếu Nguyễn Tuân “viết tùy bút như một công trình khoa học” theo Phan Ngọc, thì ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là những thi phẩm văn xuôi với nhiều cung bậc của cảm xúc và lý trí hoà quyện. Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, văn chương của mỗi người có phong cách riêng, đã góp phần quan trọng khẳng định ký là một thể loại đặc sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt có ý nghĩa trong tiến trình làm giàu và làm đẹp tiếng văn Hoàng Phủ Ngọc TườngHoàng Phủ Ngọc Tường “đã chọn bút ký là thể loại văn xuôi tiêu biểu… là duy nhất và không thể thay thế được”, như ông tâm sự về nghề văn. Đó là một lựa chọn có nền tảng – nền tảng của học vấn, của chiêm nghiệm và hơn nữa là nền tảng của tâm Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sau khi học hết bậc trung học ở Huế, năm 1960 ông tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán, Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận bằng Cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Từ năm 1960 đến năm 1966 ông dạy học tại trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học Huế. Từ năm 1966 đến 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ly gia đình lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng hoạt động văn nghệ – đây có thể coi là thời điểm tạo bước ngoặt để ông dấn thân cho văn động văn nghệ trong kháng chiến chống Mỹ là thời gian Hoàng Phủ Ngọc Tường có điều kiện thâm nhập thực tế nhiều địa phương, tiếp xúc nhiều hoàn cảnh, nhiều nhân vật. Thực tế đã cung cấp cho ông những góc nhìn mới, cách cảm mới, làm chất xúc tác cho sự chiêm nghiệm trong ông ngày thêm dày dặn, thêm sâu sắc, cả về tri thức lẫn cảm xúc, để từ đó kết tinh thành những tác phẩm ký chứa đựng sự thăng hoa trong bút pháp của người nghệ sỹ ngôn ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn cho tôi cảm giác thú vị, lần đọc sau cảm giác thú vị lại đậm đà hơn, “cá biệt” hơn. Thực tại trong ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường không dừng lại ở sự mô tả mà loang ra, trộn vào quá khứ gần quá khứ xa, để rồi trồi lên khát tính triết học trong ông không miệt mài lý giải mà nhường chỗ cho trực giác dịch biến để thức nhận cái hoàn mỹ của các hiện tượng và sự vật trong sự giàng buộc lẫn viết văn không thể thiếu ký ức, bởi ký ức là nguồn cảm hứng đặc biệt. Ký ức không phải là quá khứ, cũng không phải là kinh nghiệm, mà là quá trình tích luỹ và rèn luyện xúc cảm trước những cái nhìn thấy và cả những cái không nhìn thấy, nhào luyện nó và nén nó lại, nuôi dưỡng nó cho tâm hồn luôn ở trạng thái rung động có ý thức, từ tự phát đến tự giác của khả năng nhạy cảm. Do đó,ngẫu nhiên không phải là thuộc tính của ký ức. Ký ức là một nguồn năng lượng,cũng là năng lực, khác nhau ở mỗi nuôi dưỡng và khai thác ký ức trong lao động sáng tạo nghệ thuật không giống nhau ở từng ức luôn luôn vận động và sẵn sàng gia nhập tương lai khi người ta ý thức và chủ động đưa nó vào cuộc sáng tạo. Nói cách khác, ký ức là quá trình tổng hợp nền tảng tri thức bền vững và sức tưởng tượng bay bổng, làm nên tác phẩm mang đặc tính riêng của một tác giả có phong cách độc Phủ Ngọc Tường là một tác giả biết chắt chiu, nuôi dưỡng và sử dụng ký ức hiệu quả. Trong mỗi tác phẩm ký của ông, ký ức thực sự là nhân tố gắn kết vững chắc các yếu tố hình thành nên tác phẩm. Hoàng Phủ Ngọc Tường tâm sự “Những ý niệm hình thành trong tuổi thơ của tôi chiếm một vai trò quan trọng trong vốn liếng văn hoá của đời người … Qua cát bụi đi hoài mỏi chân, ý niệm kia đã đâm chồi nảy lộc trong tâm thức tôi thành nỗi khát khao về Vĩnh Hằng”, từ đó ông khẳng định “văn hoá là báu vật dành cho con người”, và cho rằng “Người ta hoàn toàn có khả năng tái sinh văn hoá thiên nhiên của Bạch Mã bằng cách bố trí lại cơ cấu cây trồng’ như thường nói”. Không dừng lại ở những kỷ niệm, bằng những chiêm nghiệm và kiến văn sâu rộng, Hoàng Phủ Ngọc Tường dựng nên tác phẩm ký Ngọn núi ảo ảnh đẹp như một bức khảm vỏ trai, vỏ ốc hài hoà và tinh xảo, bất kỳ ở góc nhìn nào cũng đều thấy ánh lên độ sáng vừa thực vừa ảo. Những ký ức xa-gần, xen kẽ, của tác giả về Bạch Mã – một dãy núicách Huế 40 km về phía nam và cách Đà Nẵng 60 km về phía bắc, để lại trong lòng người đọc một ký ức dày dặn về một địa danh không phải bất cứ ai cũng có điều kiện chiêm ngưỡng cảnh đẹp hùng vĩ và hiểu biết nhiều về “thân phận” thăng trầm qua những biến cố tự thân cũng như ngoại lực tác động thường xuyên. Trong cái đẹp toàn thể, bật lên cái đẹp khao khát của tác giả ngẫm về cuộc đổi thay “số phận” của Bạch Mã, mà trước hết trông chờ vào chính sự thay đổi ý thức và tư duy của con người đối với thiên nhiên. Cuối tác phẩm Ngọn núi ảo ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường hạ một nốt trầm ngân nga “Bạch Mã như là một thành phố ảo ảnh trong sa mạc, huy hoàng phút chốc rồi tan biến, chỉ còn lại một bóng núi lau mờ…”. Chính nốt trầm này gõ vào lòng trắc ẩn của người đọc, xua đuổi sự thờ ơ, trỗi dậy niềm hy vọng có đủ căn cứ nhân Phủ Ngọc Tường là người kể chuyện bằng thể ký. Bám sát các sự kiện, các nhân vật một cách chân thực, nhưng không lệ thuộc, ông thổi vào đối tượng điệu hồn mang cốt cách của những thực thể, mà tính cá thể ấy vận động trong tổng thể xác định không thể tách rời. Không để lại dấu vết hư cấu, bút pháp ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không che khuất nghệ thuật cấu trúc truyện cũng như nghệ thuật nhân cách hoá và ẩn dụ của thơ. Chẳng hạn, như trong“Diễm xưa” của tôi, Kon Lai và Kan Sao là hai nhân vật “đậm đà”, trong khi Kon Lai kỳ lạ như “một cây tùng cổ, đã quên già để sống không cần biết tuổi”, thì Kan Sao là người con gái đẹp có “nụ cười hoa ngâu và đôi mắt nai dịu dàng của Huế”. Và, Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành người con của Huế từ khi nào chẳng nhớ, chỉ biết rằng Huế là nhân vật trữ tình kiều diễm nhất trong đời văn của bó với Huế từ lâu, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn “bỗng” nhận ra Huế là một thành phố lạ lùng “Mơ mộng, lười biếng như nàng công chúa sầu muộn, để chợtnhiênnổi giận, thách thức như một lời hịch tuyên chiến. Hình như trong mỗi người Huế-ham-chơi vẫn tiềm ẩn một cái tôi thứ hai’ sẵn sàng nhày vào lửa” Hành lang của người và gió….Hai “tính cách” ấy của Huế chịu ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài từ dòng Hương giang, không chỉ ở khúc sông chảy trong lòng chiều dài từ thượng nguồn ra đến cửa biển, sông Hương bồi đắp cho thành phố bề dày với những nét đẹp vừa lộng lẫy vừa phảng phất, níu kéo biết bao tâm hồn thổn thức, để lại cho đời người câu chuyện huyền thoại về cái tên vừa mỏng của “dòng sông trắng – lá cây xanh” Tản Đà vừa sắc lẹm “như kiếm dựng trời xanh” Cao Bá Quát, rằng “vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông, để làn nước thơm tho mãi mãi” Ai đã đặt tên cho dòng sông. Không dừng lại ở đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhập vào dòng chảy của con sông “rất nhạy cảm với ánh sáng, nó thay màu nhiều lần trong một ngày như hoa phù dung và đôi khi màu nước không biết từ đâu mà có, không giống với màu của trời”, để từ đó nhận ra “Cuối Hè, Huế thường có những buổi chiều tím, tím cầu, tím áo, cả ly rượu đang uống trên môi cũng chuyển thành màu tím; và sông Hương trở thành dòng sông tím sẫm hoang đường như trong tranh siêu thực” – màu tím Huế trở thành “dấu hiệu của một nội tâm trong sáng, giàu có nhưng gìn giữ để không bộc lộ nhiều ra bên ngoài, vì thế với người phụ nữ Huế, màu tím ấy vừa là màu áo, vừa là đức hạnh” Sử thi buồn.Một trong những ấn tượng nổi trội ở các tác phẩm ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường làtình yêu thiên nhiên, một tình yêu luôn luôn là bà đỡ để ông cảm thụ và đem lòng yêu từng chi tiết của mỗi mảnh đất cụ thể. Ông viết “Nhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ”, và “Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế” Miền cỏ thơm. Phải có hiểu biết và chiêm nghiệm sâu sắc mới có thể biểu tả thành cảm xúc như thế. Trong Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhiều đúc kết tinh tế về Huế, rằng “Có lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là bản sắc Huế’. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại”. Điều đó phù hợp với bản chất thống nhất và phân hoá trong mối quan hệ hữu cơ giữa con người và thiên nhiên tính đặc thù ở mỗi cảnh quan tự nhiên vị trí địa lý, đất đai, khí hậu… là điều kiện cần thiết để con người xác lập cho xứ sở của mình một cảnh quan văn hoá riêng. Và, ở đoạn văn tiếp sau, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận xét rất nhân bản, rằng “Hình như khi xây dựng nên đô thị của mình, người Huế không bộc lộ cái ham muốn chế ngự thiên nhiên theo cách người Hy Lạp và La Mã, mà chỉ tìm cách tổ chức thiên nhiên trở thành một kẻ có văn hoá để có thể tham dự một cách hài hoà vào cuộc sống của con người, cả bên ngoài và bên trong”. Nhìn rộng ra, cách “tổ chức thiên nhiên trở thành một kẻ có văn hoá” là đặc điểm căn bản của người Việt trong tiến trình xây dựng và khẳng định bản sắc văn hoá trên phạm vi lãnh thổ cư trú của mình qua lịch sử nhiều biến động. Tính cách ấy người Huế thể hiện có phần khu biệt qua quan sát của Hoàng Phủ Ngọc Tường “sẽ là vô ích nếu người ta định tìm kiếm ở Huế những khu vườn cao sản kiểu vựa trái của miền Đông Nam Bộ, và nếu người ta quên không nhìn đến diện mạo văn hoá của cái thế giới thực vật nho nhỏ kia”, bởi “Người Huế lập vườn, trước hết như là nơi cư ngụ của tâm hồn mình giữa thế gian, ước mong sẽ là chút di sản tinh thần để đời cho con cháu”. Khó có ai yêu và thấu hiểu Huế một cách ngọn ngành, căn cơ sánh bằng Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tình yêu ấy thúc giục cái ký ức tổng thể trong ông trỗi dậy, nhẩn nha điểm xuyết tất cả những gì lắng đọng trong tâm hồn ông phát lộ thành ngôn ngữ văn chương, phảng phất mà chắc nịch, hối hả mà trầm tư “Tôi nhận ra ở mỗi con người quanh tôi, trĩu nặng một nỗi lòng thương cây nhớ cội, và nét điềm tĩnh của mảnh đất mà họ đã cày cuốc và gieo hạt”.Con người và thiên nhiên trong ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường quấn quýt và nâng đỡ nhau như hình với bóng. Bằng kiến văn của mình, ông chứng minh trên nền tảng thiên nhiên ấy, trí tuệ và sức vóc con người Huế đã kiến tạo nên một vùng văn hoá Huế, mà thành phố Huế là nhân lõi, chứa đựng nhiều tầng, nhiều lớp đặc trưng của lịch sử hình thành và phát triển, vừa thống nhất với đặc điểm văn hoá dân tộc vừa mang những sắc thái riêng, độc đáo và thi vị. Ký ức của Hoàng Phủ Ngọc Tườngmang đầy đủ các yếu tố địa-sử-văn-triết và qua cách biểu cảm ông đã tạo nên những tác phẩm có chiều sâu văn hoá. Trong tư duy sáng tạo nghệ thuật, Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự coi trọng yếu tố địa lý, xem các thành tố của thiên nhiên là những thực thể, đưa chúng vào cùng vận động với sự chuyển biến của tác phẩm, chứ không chỉ “mượn” thiên nhiên nhằm làm “đẹp” tác phẩm như ở khá nhiều người viết khác. Đặc điểm này góp phần cấu thành nên phong cách ký Hoàng Phủ Ngọc thêm Các Loại Bộ Nhớ Ngoài Của Máy Tính Là Gì? Chức Năng Là Gì? Các Loại Bộ Nhớ NgoàiKý của Hoàng Phủ Ngọc Tường đẹp từ trong tư duy và vì thế đẹp cả trong cách thể hiện, với sự chặt chẽ của cấu trúc và sự trong sáng của ngôn ngữ. Đọc các tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi học được nhiều điều bổ ích, bởi ông là người thổi hồn vào thể ký.

hoàng phủ ngọc tường sông hương