Rừng ngập mặn chủ yếu là cây bụi và cây bụi thường xanh chịu mặn , thích hợp phát triển ở những vịnh có sóng gió tương đối êm và phù sa dày, hoặc đất mặn dưới dòng triều cường của cửa sông . Nó mọc um tùm, có nhiều loài phong phú, tán cây gọn gàng, có những
Mục lục bài viết1 Mẹo Hướng dẫn Các cây sống ở vùng đất ngập mặn ven bờ biển hấp thụ nước bằng phương pháp nào Chi Tiết2 Thực trạng và giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn 2.1 Video full hướng dẫn Share Link Tải Các cây sống ở vùng đất ngập mặn ven bờ […]
Những cây thực vật nước mặn thì không có giá trị khai thác gỗ nhưng do lợi nhuận lớn từ việc nuôi tôm, thủy sản trong vùng bãi triều, rừng ngập mặn và nhu cầu đất đai nên trong nhiều thập kỷ sau 1975, phong trào phá rừng ngập mặn để “phát triển kinh tế” trở
Đặc biệt khu rừng này chỉ cách trung tâm thành phố Bạn đang xem: Về rừng ngập mặn Rú Chá rảo bước giữa lá phổi xanh trong lòng đất Huế
Ngày 29/3/2022, UBND quận Hải An có Văn bản số 504, giao Công an quận điều tra, xác minh đối tượng gây ra việc cây rừng ngập mặn chết nêu trên, đồng thời tham mưu UBND quận xử lý theo quy định của pháp luật.
dYgL. Rú Chá là khu rừng ngập mặn mang đầy tính hoang sơ, ma mị của vùng đất Thừa Thiên Huế. Hành trình du lịch rừng Rú Chá sẽ đem đến bạn những trải nghiệm ban sơ nhất khi rời xa chốn thành thị. Rừng ngập mặn nguyên sinh Rú Chá nằm trên địa phận làng Thuận Hòa, xã Hương Phong, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Rừng thuộc hệ đầm phá Tam Giang với diện tích hơn 5 ha. Khi ghé thăm, khu rừng hiện lên với vẻ đẹp nguyên thủy, ma mị. Tên gọi “Rú” theo phương Huế nghĩa là rừng núi, “chá” chỉ một giống cây. Loài thực vật này có tuổi thọ khoảng vài chục năm, trái khá to nhưng không ăn được. Diện tích cây này chiếm đến 90% không gian rừng ngập mặn. Chức năng chính của rừng là ngăn mặn và bảo vệ đất liền. Trước khi trở thành khu du lịch nổi tiếng, Rú Chá trước hết là nơi sở hữu hệ thống động thực vật đa dạng, đặc biệt là thủy sinh đầm phà. Chính nơi đây đã cung cấp nguồn tài nguyên cho người dân địa phương. Nên đi Rú Chá khi nào? Khi đi tham quan Kinh Thành Huế, chùa Thiên Mụ và chợ Đông Ba, du khách có thể ghé thăm rừng ngập mặn Rú Chá. Điều đặc biệt là bạn có thể tham quan khu rừng này hầu hết thời gian trong năm. Trong đó, khoảng tháng 2-9 là thời điểm lý tưởng nhất để ghé thăm Rú Chá. Cả khu rừng phủ đầy không gian thơ mộng, lãng mạn. Đặc biệt, cây chá trổ bông còn báo hiệu mùa mưa lũ. Ngoài ra, du khách nên theo dõi dự báo thời tiết sát sao trước khi khởi hành. Đặc trưng dầm dề “thối đất thối trời” nơi đây không hề phù hợp cho chuyến du lịch thú vị đâu. Cách đi chuyển đến rừng Rú Chá Chỉ khoảng 5 năm trước, du khách chỉ có thể để xe ngoài bìa rừng Rú Chá. Du khách buộc phải lội nước, đường đất nhão nhoẹt thậm chí phải đi đò. Kết quả là tay chân lấm lem như làm ruộng. Thật may là giờ đường vào rừng Rú Chá được đổ bê tông rất thuận tiện. Xuất phát từ trung tâm thành phố Thừa Thiên – Huế, bạn chỉ đi mất khoảng 15km. Đi từ trung tâm Huế theo Quốc lộ 449>> hướng biển Thuận An>> cầu Tam Giang>> Rú Chá. Theo cung đường này, bạn có thể dễ dàng thấy màu xanh rừng nguyên sinh từ đằng xa theo hướng xã Hương Phong. Khi đến gần bạn sẽ thấy rõ hơn các cụm cây chá đan xen vào nhau. Chơi gì ở rừng ngập mặn Rú Chá? Thưởng thức khung cảnh xanh mát Điểm ấn tượng nhất của rừng ngập mặn Rú Chá là khung cảnh xanh ngút ngàn mênh mông. Sắc thái độc đáo này được tạo nên từ hàng ngàn cây chá phủ đầy diện tích 5 ha. Ánh nắng theo từng khoảng thời gian tạo nên các cấp độ màu xanh khác nhau. Ngay khi ngắm nhìn từ đằng xa, du khách đã cảm nhận sự sảng khoái, mát mẻ hiếm có. Con đường bê tông dẫn vào rừng với nhánh rễ ngắn tạo nên cảm giác ma mị. Những cành chá uốn cong đan bện càng làm không gian càng trở nên huyền bí. Mặt nước yên ả với bóng cây đem tới cảm giác bình yên cho mọi đối tượng thưởng thức. Đặc biệt khi thu đến, toàn bộ rừng ngập mặn Rú Chá ngập tràn sắc rồi chuyển dần sang đỏ. Điều này khiến ai cũng phải bật thốt ngỡ ngàng trước món quà của mẹ thiên nhiên. Từ trên cao nhìn xuống, bạn có thể thưởng thức cảnh sắc xanh ngát xen với màu đỏ, màu vàng. Check-in sống ảo Nhiều khách du lịch không ngái đường xa đến rừng Rú Chá Huế để sống ảo. Người ta còn truyền tai nhau rằng rừng ở góc nào cũng lung linh, đẹp mắt. Ngoài nhà nghiên cứu tìm đến, phần lớn khách đến đây để du lịch hoặc chụp ảnh cưới. Con đường dẫn vào đan cài đầy rễ cây ngắn cũng được ví như thánh đường cổ kính của các cặp đôi. Tìm hiểu hệ sinh thái Với hệ sinh thái rừng ngập mặn đặc trưng, rừng Rú Chá sở hữu tới hơn 90% diện tích cây chá. Các cây nằm sát nhau với bộ rễ ăn sâu tạo nên cảnh tượng đặc sắc nhất nhì. Với người đam mê khám phá hoăc nhà nghiên cứu, rừng ngập mặn Rú Chá quả thực là vùng đất có thế giới nguyên sinh cùng hệ động thực vật hoang dã không thể bỏ qua. Ngắm cảnh từ đài quan sát Trong vài năm gần đây, người ta đã cho xếp tháp bê tông giữa Rú Chá vừa để có tầm nhìn bao quát vừa phục vụ du lịch. Đứng trên đỉnh tháp canh, bạn có thể thu vào tầm mắt toàn bộ vùng nước Tam Giang mênh mông. Đi thuyền du ngoạn trên sông Ngoài đi dạo, bạn có thể tận hưởng trải nghiệm chèo thuyền trên sống. Chỉ 1 chiếc thuyền nhỏ là đủ để bạn len lỏi khắp khu rừng và cảm nhận hệ sinh thái độc đáo trong khu rừng ngập mặn xứ Huế. Ghé thăm miếu cổ Ngôi miếu thờ bà Đức Thánh Mẫu sở hữu một bát nhanh đặc biệt. Tương truyền trận lụt lớn xưa đã cuốn bát nhang Đức Thánh Mẫu từ điện Hòn Chén trôi. Từ đó dân làng bắt đầu thờ tự Bà. Vốn nổi tiếng là nơi linh thiêng, dân làng vẫn thường đến đây dâng lễ. cúng bái. Ngoài ra, ngày giỗ Đức Thánh Mẫu rơi vào mùng 3/3 Âm lịch. Ăn gì ở Rú Chá? Nói đến “ẩm thực” Rú Chá, sao có thể không nhắc đến ông Đáp – bà Hồng ôn – mệ theo cách nói người Huế. Họ vốn là 2 vợ chồng tình nguyện canh giữ rừng hơn 30 năm. Vì lẽ đó nhiều người gọi 2 ông bà với biệt danh gần gũi là “Robinson xứ Huế”. Khách quen đến thì liên hệ với 2 người đặt cơm trước. Với khách qua đường, bạn chỉ cần ghé xin cơm và gửi lại chút tiền là được. Tuy đạm bạc nhưng trong nhà ôn mệ luôn sẵn cá đầm, gà vườn. Trải nghiệm “xin ăn” cũng rất thú vị đấy chứ? Nếu muốn ăn hải sản, bạn có thể tìm đến Cồn Tè. Trên đường về trung tâm Huế khoảng km, bạn có thể tạt vào các quán ăn theo chủ dẫn bảng chỉ dẫn vào Cồn Tè. Tầm nhiều khá nhiều người từ thành phố đến đây để thưởng thức hải sản giá rẻ và thư giãn. Gợi ý xem thêm
Rừng ngập mặn bao gồm nhiều loại cây sống trong khu vực nước mặn ở ven biển, cũng như ở trong vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong rừng ngập mặn, không phải loại cây nào cũng có thể sinh sống và phát triển được. Chỉ những loại thực vật thích hợp với vùng nước ngập mặn mới có thể sinh sống và phát triển một cách tốt nhất. Chính vì những yếu tố đó đã tạo nên một môi trường sinh trưởng và phát triển khắc nghiệt chỉ những loại cây ngập mặn với những đặc tính riêng mới có thể sống và thích nghi một cách tốt nhất. Rừng ngập mặn là một trong những hệ sinh thái quan trọng và có năng suất cao nhất trên thế giới, là nơi nuôi dưỡng, cư ngụ, cung cấp thức ăn cho nhiều loài động vật dưới nước và trên cạn có giá trị ở vùng ven biển. Rừng ngập mặn giúp ổn định bờ biển, bảo vệ đê điều và là tấm lá chắn chống lại gió bão cũng như các tai biến thiên nhiên. Rừng ngập mặn đã đóng góp đáng kể vào đời sống kinh tế xã hội của người dân ven biển ở Việt Nam. Tài nguyên hệ sinh thái rừng ngập mặn đã được khai thác từ lâu đời làm vật liệu xây dựng, hầm than, củi đun, lấy ta nin, thức ăn, mật ong, thảo dược,... Hiện trạng và xu thế biến đổi hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Việt Nam Hiện nay, tổng diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam khoảng ha. Với diện tích này, Việt Nam đứng tốp đầu trong các quốc gia có diện tích rừng ngập mặn trên toàn thế giới. Do Việt Nam có khoảng 3260 km đường bờ biển, chạy dọc theo 28 tỉnh và thành phố từ Móng Cái tỉnh Quảng Ninh đến Càu Mau. Chạy dọc theo đường bờ biển ấy, có một số khu rừng ngập mặn lớn như rừng ngập mặn Cần Giờ TP. Hồ Chí Minh, rừng ngập mặn Rú Chà tỉnh Thừa Thiên - Huế, rừng ngập mặn nguyên sinh ở Tam Giang tỉnh Quảng Nam, rừng ngập mặn ở Cà Mau. Nổi bật trong số đó là rừng ngập mặn Cần Giờ với tổng diện tích nên tới khoảng ha, được mệnh danh là khu rừng ngập mặn đẹp nhất của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam đang có nguy cơ bị đe dọa nghiêm trong do thu hẹp về diện tích vì tình trạng khai thác chặt phá rừng diễn ra một cách khá phổ biến. Ngoài ra, những cơn gió, bão, sóng biển cũng là nguyên nhân làm thu hẹp diện tích rừng ngập mặm. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm môi trường cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến rừng ngập mặn. Vai trò của rừng ngập mặn Hệ sinh thái rừng ngập mặn không chỉ là nguồn cung cấp oxy mà còn giúp điều hòa không khí. Đây là một trong những lá chắn giúp phòng hộ ven biển và phòng tránh được sự bào mòn của nước biển. Ngoài ra, rừng ngập mặn còn có vai trò quan trọng đối với lợi ích kinh tế của chúng ta Cung cấp nhiều loại dược liệu và chất đốt cho một số ngành công nghiệp. Tạo ra môi trường sống thuận lợi cho người dân nuôi trồng thủy hải sản. Đây cũng là một nơi thu hút nhiều khách du lịch tới thăm quan và khám phá về rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, có nhiều lợi ích cho động vật, con người và cả hệ sinh thái xung quanh. Bảo vệ chống lại thiên tai Thân, cành và rễ của rừng ngập mặn đóng vai trò là rào cản giúp giảm ảnh hưởng của ngập lụt, sóng, gió mạnh. Nhờ vậy bảo vệ con người, nhà cửa, đồng ruộng khỏi thiên tai, bão lũ, sóng triều. Bên cạnh đó, hệ thống thân, rễ, cành nhiều của rừng ngập mặn còn giúp lấn biển, tăng diện tích đất thông qua việc giữ lại và kết dính vật liệu phù sa. Cung cấp sinh kế cho con người Hệ sinh thái rừng ngập mặn có nhiều loài động vật có vỏ cá, tôm… cho con người. Đồng thời, cung cấp nhiều nguyên liệu mà con người thường xuyên dùng đến sợi, dược liệu, than củi, mật ong, lá dừa để lợp mái nhà. Rừng ngập mặn còn có giá trị về văn hóa, kinh tế và thích hợp cho phát triển du lịch. Hiện nay, rừng ngập mặn cung cấp sinh kế cho rất nhiều người trên toàn thế giới. Do họ sống dựa vào việc khai thác giá trị của nó. Giảm tác động của biến đổi khí hậu Biến đối khí hậu gây ra những thiên tai như bão lũ. Khi đó, rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ con người, đồng ruộng, nhà cửa khỏi các thiên tai này. Ngoài ra, rừng ngập mặn còn có khả năng loại bỏ thải khí nhà kính ra khỏi bầu khí quyển, giảm biến đổi khí hậu. Giảm ô nhiễm Rừng ngập mặn loại bỏ các ô nhiễm, trầm tích, phú dưỡng ra khỏi kênh rạch, sống, ngòi, đại dương. Chính vì vậy, chúng giúp lọc sạch nước cho hệ sinh thái xung quanh như san hô, cỏ biển. Rừng ngập mặn được ví thận của môi trường. Nhờ những quá trình sinh hóa phức tạp, chúng phân giải, hấp thụ và chuyển hóa các chất độc hại, giảm ô nhiễm môi trường. Cung cấp thức ăn và môi trường sống động vật Không chỉ có tác dụng đối với con người, rừng ngập mặn còn cung cấp thức ăn, là nơi trú ngụ cho nhiều loài cá, tôm, động vật có vỏ, chim và động vật có vú. Các loài động thực vật phổ biến trong rừng ngập mặn là cây chịu mặn, chim nước, hải sản, chim di cư, lợn rừng, trăn, khỉ, chồn và kỳ đà. Rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống lưới thức ăn phức tạp. Do đó, nếu phá hủy rừng ngập mặn sẽ tác động xấu đến đời sống thủy sinh và đại dương. Một số giải pháp bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn Để bảo vệ rừng ngập mặn cần chú trọng thực hiện một số giải pháp sau Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật giúp nâng cao nhận thức về bảo vệ và phát triển rừng cho người dân vùng rừng; nâng cao năng lực của lực lượng trực tiếp quản lý bảo vệ rừng thông qua việc tham gia các chương trình tập huấn, đào tạo chuyên môn… lồng ghép với chương trình giáo dục pháp luật của các Sở, ban, ngành và các lớp tập huấn do các tổ chức trong và ngoài nước tài trợ. Thực hiện tốt công tác phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với các cơ quan chức năng đóng quân trên địa bàn quản lý để kiểm tra, truy quét ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng, bảo vệ biển. Xây dựng kế hoạch tăng cường công tác phối hợp giữa các trạm quản lý bảo vệ rừng, biển với chính quyền địa phương và các ngành chức năng nhằm đẩy mạnh công tác tuần tra, kiểm tra, ngăn chặn, xử lý kịp thời những vụ việc vi phạm xảy ra trên địa bàn quản lý. Xây dựng cơ cấu xã hội nghề rừng ổn định, phù hợp với các mục tiêu quản lý, bảo vệ và phát triển rừng thông qua việc cải thiện và nâng cao tính bền vững của các hệ canh tác lâm - ngư nghiệp, tăng năng suất của rừng để nâng cao giá trị bảo tồn đa dạng sinh học của rừng ngập mặn Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý hệ sinh thái rừng, biển, trong đó người dân được phối hợp quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững theo quy định của pháp luật. Cần xây dựng quy hoạch tổng thể sử dụng các vùng rừng ngập mặn; tiến hành khảo sát và nghiên cứu chi tiết về tình trạng rừng ngập mặn, diện tích ao nuôi tôm, diện tích đất lở, đất bồi ở tất cả các tỉnh ven biển có rừng ngập mặn thông qua ảnh vệ tinh, ảnh máy bay và nghiên cứu thực địa. Các kết quả nghiên cứu sẽ là cơ cở khoa học cho quy hoạch tổng thể sử dụng đất và tài nguyên một cách hợp lý và bền vững ở các vùng ven biển. Nghiên cứu phát triển các ngành nghề nuôi trồng thủy sản ở các vùng ven biển như nuôi sò, nuôi vạng hoặc các loài cá có giá trị kinh tế cao để dần dần thay thế nghề nuôi tôm ở các vùng rừng ngập mặn. Cũng cần thiết phải cải thiện cơ cấu và đa dạng hóa nuôi trồng thủy sản nhằm đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường và giảm thiểu nguy cơ bệnh dịch. Xem xét, đánh giá nguồn tài nguyên kinh tế và các tác động tới môi trường của một số mô hình lâm ngư kết hợp nhằm phát huy những thành tựu và rút ra những bài học kinh nghiệm. Cần tiếp tục xây dựng các mô hình nuôi tôm kết hợp bảo vệ rừng ngập mặn... Một vấn đề cấp bách khác đặt ra là diện tích sử dụng vào mục đích nuôi tôm cần được thống kê để đảm bảo diện tích nuôi chỉ từ 1/5 đến 1/4 tổng diện tích bề mặt theo đúng mô hình lâm - ngư kết hợp trong vùng rừng ngập mặn. Ngay khi nghề nuôi tôm có dấu hiệu suy giảm hiệu quả thì cần thu hồi đất phục vụ cho việc trồng lại rừng ngập mặn và tạo môi trường sống lâu dài cho các loài thủy sản. Giới thiệu về rừng ngập mặn và giáo dục bảo vệ nguồn lợi động vật biển, thành một phần trong giáo dục giảng dạy ở tất cả các bậc học. Tổ chức các khóa đào tạo về vai trò của hệ sinh thái rừng ngập mặn trong tiến trình phát triển kinh tế và bảo tồn tự nhiên cho các nhà quản lý địa phương và cán bộ nòng cốt. Lập ra các công cụ chính sách rõ ràng và các quy định sử dụng một phần lợi nhuận thu được từ kinh doanh các sản phẩm tôm đông lạnh thông qua hàng rào thuế quan cho việc phục hồi rừng. Áp dụng các chính sách khả thi nhằm hạn chế tốc độ tăng dân số và kế hoạch hóa dân số cho mỗi vùng rừng ngập mặn. Đồng thời, đẩy mạnh việc giao đất và giao rừng cho các hộ chịu trách nhiệm trồng và bảo vệ rừng. Các chính sách lâu dài về sử dụng bãi bồi ven biển cần phải được quy định rõ ràng nhằm ứng phó với tình trạng chuyển đổi đất rừng sang sử dụng vào mục đích không thích hợp và bảo vệ quyền lợi của người nghèo./.
Việt Nam có rất nhiều khu rừng ngập mặn và đa dạng các loại thực vật cũng như động vật mà bạn có thể chưa biết đến. Trong bài viết ngày hôm nay, sẽ giới thiệu cho mọi người danh sách những loài cây phổ biến trong rừng ngập mặn Việt Nam để mọi người cùng tham khảo và tìm hiểu nhé. Rừng ngập mặn mang lại những giá trị gì?Tên các loài cây phổ biến trong rừng ngập mặn Việt NamDừa nướcCây Dà VôiĐước vòiĐướcCây ĐưngBần ổiCóc đỏCóc trắngCây CôiCây CuiMấm trắngMấm biểnCây giáSú congCây Su ổiVẹt khoangCây vẹt dùCây vẹt đenCây Trang Rừng ngập mặn mang lại những giá trị gì? Rừng ngập mặn là một khu vừa có rất nhiều loại cây sống ở các khu vực nước ngập mặn ven biển ở những vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Không phải bất kì loại cây nào cũng có thể sống được tại rừng ngập mặn và chỉ có một số những thực vật điểm hình mới có thể sinh trưởng và phát triển tốt tại đây. Tính đến hiện nay thì ở nước ta có đến 35 loài cây ngập mặn chỉ yếu và 40 loài cây tham gia rừng ngập mặn, Ngoài những cây thân gỗ thì có có một số loại cây bụi, cây cỏ. Các loại cây sống tỏng rừng ngập mặn đều có một điểm chung đó là có bộ rễ chùm như nơm. Kiểu rễ này có thể lan rộng ra xung quanh giúp cây bám chắc hơn dưới đất, làm giảm vận tốc của dòng chảy, tạo điều kiện cho trầm tích bồi tụ nhanh hơn ở các vùng cửa sông ven biển, làm giảm sức mạnh của các con sóng cà thiên tai bão lụt từ biển. Rừng ngập mặn có vai trò rất quan trọng vì nó không chỉ là lá chắn phòng hộ ven biển mà còn là nguồn cây xanh điều hòa không khí, mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho người dân như tạo điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản; cung cấp nhiều dược liệu, chất đốt, nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp; là điểm đến tham quan, khám phá hệ sinh thái rừng ngập mặn,… Hiện nay, tổng diện tích rừng ngập mặn của nước ta là khoáng ha, đừng đầu trong các quốc gia có rừng ngập mặn trên thế giới. Tuy nhiên một thực trạng đáng được báo động đó chính là diện tích các khu rừng ngập mặn đang bị đe dọa nghiêm trọng, đa phần nguyên nhân là do nạn chặt phá rừng xảy ra hàng ngày, người dân đắp bờ kè để nuôi trồng thủy hải sản và một phân là do yếu tố môi trường tác động lên như sạc lở, gió bão, ô nhiễm môi trường,… Tên các loài cây phổ biến trong rừng ngập mặn Việt Nam Dừa nước Khi nhắc đến các loại cây ở rừng ngập mặn thì chắc chắn bạn không thể nào bỏ qua cái tên cây dừa nước. Thân cây dừa nước mọc ngang dưới mặt đất, chỉ có lá và cuống hoa mới mọc ở bên trên mặt nước mà thôi. Cây dừa nước thích hợp trồng ở những vùng bãi bồi cửa sông, chống xói lỏ tốt. Người ta dùng lá của cây dừa nước để che nắng che mưa, làm nhà. Cây Dà Vôi Dà vôi là một loại cây có gỗ màu đỏ, khá nặng, gỗ mịn và có thể sử dụng trong xây dựng. Gỗ Dà Vôi còn có thể dùng để làm đồ dùng trong gia đình, đóng tàu thuyền hoặc đốt lấy tanin. Thực vật ở rừng ngập mặn Đước vòi Đước vòi hay còn có cái tên gọi khác là Đâng, đây là một loại cây thân gỗ thường được trồng để chắn gió, chắn sóng, bảo vệ đê do có hệ rễ phát triển. Gỗ cây đước vòi có thể dùng làm củi, làm các dunjgg cụ sản xuất muối hoặc đốt để lấy tanin. Đước Đây là một cây có thân gỗ cứng, khá bền chắc và được sử dụng nhiều trong xây dựng, có vai trò chắm gió, bảo vệ vùng ven biển hiệu quả. Người ta còn dùng đước để làm củi, khi đốt sẽ cho than với nhiệt lượng cao. Vỏ có chứa nhiều tanin có thể sử dụng để nhuộm lưới, nhuộm da. Cây Đưng Đây là một cây gỗ nặng, có thể dùng tốt trong xây dựng, dùng làm củi và than cho nhiệt lượng cao. Người ta trồng cây Đưng vở các vùng ngập mặn để vảo vệ vùng đất xen biển, chắn gió chắn sóng hiệu quả. Vỏ của cây Đưng cũng chứa nhiều tanin có thể dùng để nhuộm lưới. Bần ổi Đây là một trong những loại cây phổ biến ở rừng ngập mặn, câu bần ổi có gỗ không tốt cho nên chỉ có thể sử dụng để đóng đồ tạm mà thôi. Người ta thường trồng cây bần ổi để có thể bảo vệ đê biển, chắn gió là chủ yếu. Cóc đỏ Cóc đỏ là một loại cây được trồng để bảo vệ những vùng đất ven sông hoặc ven biển. Gỗ của cóc đỏ có thể được dùng để làm các vật dụng thông thường hoặc làm chất đốt. Cóc trắng Cũng như cóc đỏ, cóc trắng đượ trồng để bảo vệ các vùng đất ven sông, ven biển, gỗ dùng để đốt than, cho tanin hoặc dùng trong xây dựng địa phương. Cây Côi Côi là một cây thân gỗ cứng và nó được trồng với các mục đích đơn giản, bảo vệ và chắn gió ở những vùng đất ven biển, ven sông. Cây Cui Đây cũng là một loại cây có mặt nhiều trong rừng ngập mặn với công dụng là chắn gió ở những vùng ven biển. Cui là loại cây gỗ cứng có thể được sử dụng để làm dụng cụ gia đình đơn giản. Mấm trắng Mấn trắng là một loại cây gỗ xám trắng, nó có vòng sinh trưởng rất rõ ràng và thường dễ bị các loại côn trùng, mối ăn. Mấm trắng có thể sử dụng để làm củi đốt nhưng có nhiệt lượng khá thấp, vỏ cây được sử dụng để chữa bệnh ghẻ, lá được sử dụng cho phân xanh tốt và mấm trắng có trái có thể ăn được. Mấm biển Mấm biển là một loại gỗ nhỏ, có thể được sử dụng để làm củi đốt. Lá của mấm biển được sử dụng để làm phân xanh, giàu protein, cây có trái ăn được, hoa là nguồn mật ong. Vỏ và gốc cây mấm biển còn được sử dụng trong y học để chứa bệnh phong hiệu quả. Cây giá Giá là một cây phổ biến ở các khu rừng ngập mặn, nó có gỗ màu trắng, nhẹ, bột mịn và khá hạn chế về công dụng ngoại trừ được trồng để chắn gió ven biển. Nhựa mủ và lá cây giá rất độc, nó có thể làm mù mắt. Nhựa mủ được sử dụng để làm thuốc diệt cá. Phần rễ ít độc hơn so các phần khác của cây và thường được sử dụng để làm nút chai. Sú cong Sú cong là một loại thân cây gỗ thường được sử dụng để làm các dụng cụ đơn giản trong gia đình, trong xây dựng, bảo vệ các khu vực đất ở cửa sông, đất ven biển, chống xóa mòn và sạt lở do thủy triều. Cây Su ổi Su ổi là một trong những loại cây được trồng ở các khu rừng ngập mặn, gỗ có màu nâu xám hoặc màu hồng tùy loại. Gỗ khá nặng, bền chắc, không có vân, ít bị mối mọt ăn và được sử dụng để làm trụ mõ, làm nhà hoặc làm các đồ thủ công mỹ nghệ. Trong vỏ của cây su ổi có một hàm lượng tanin khá cao có thể được sửu dụng để nhuộm và thuộc da. Nhiều người còn trồng su ổi để chống xói lỏ và bảo vệ bờ biển. Vẹt khoang Cây vẹt khoang hay còn có tên gọi khác là cây vẹt trụ, loại cây này có gỗ màu đỏ, mịn, thường được sử dụng để làm đồ đạc thông thường, làm trụ mỏ, làm nhà cửa, hầm than. Đây là một loại cây được trồng phổ biến ở các rừng ngập mặn và chồi non của cây còn có thể ăn sống. Cây vẹt dù Vẹt dù là một cây gỗ màu nâu sáng và ít bị thay đổi do thời tiết. Gỗ của cây vẹt dù được sử dụng để làm đồ dùng trong gia đình, sử dụng trong xây dựng và hầm than có nhiệt lượng cao. Trong vỏ cây vẹt dù có nhiều Tanin sửu dụng để nhuộm vải, nhuộm lưới, thuộc da. Trụ mầm của cây vẹt dù có chứa nhiều tinh bột có thể chế biến thức ăn. Cây vẹt đen Vẹt đen cũng là một trong những loại cây được trồng ở rừng ngập mặn. Có thể lấy gỗ để sử dụng trong xây dựng, làm trụ mỏ, làm đồ dùng thông thường. Cây được trồng để chống xói mòn ven biển, nhiều động vật thủy sinh cũng chọn sống ở cây này. Vỏ có chứa tanin có thể dùng để thuộc da, nhuộm lưới. Cây Trang Một trong những loại cây được trồng ở rừng ngập mặn có thể kể đến nữa đó chính là cây Trang. Đây là cây có gỗ nhỏ, thường được sử dụng để làm đồ dùng thông thường hoặc để xây nhà. Trong cỏ cây có chứa một lượng tanin có thể được sử dụng để nhuộm lưới. Cây được trồng thành rừng để có thể bảo vệ vùng veo biến, cản sóng, cản gió. xem thêm website Ngoài những loại cây đã kể trên thì vẫn còn nhiều loại cây khác, tuy nhiên đây chính là những cái tên phổ biến nhất được trồng ở các rừng ngập mặn. Như đã nói, tình trạng rừng ngập mặn bị phá hoại đang diễn ra hàng ngày do vật mà các cơ quan nhà nước đang đẩy mạnh kiểm tra, giám sát và quản lý các vấn đề liên quan đến rừng ngập mặn. Xử lý nghiêm khắc với các đối tượng có hành vi tàn phá hệ sinh thái rừng ngập mặn và người dân khi khai thác thì cần phaair tuân theo luật bảo vệ môi trường một các nghiêm túc. Mọi thông tin về chống ngập mặn, xử lý nước ngập mặn cần tư vấn tại Không tự nhiên mà người ta lại trồng những loại cây này ở các khu rừng ngập mặn, chúng có khả năng sinh tồn khá cao và có mang lại nhiều lợi ích bảo vệ chắn gió, chắn sóng rất tốt. Hi vọng với những gợi ý về các loại cây phổ biến trong rừng ngập mặn tại Việt Nam sẽ giúp bạn có cái nhìn bao quát và cụ thể hơn về các loại thực vật ở rừng ngập mặn.
Parc régional du Lac Taureau RÉOUVERTURE PARTIELLE DES PARCS Nous annonçons la réouverture partielle des parcs régionaux et sites suivants Parc régional de la Chute-à-Bull Parc régional des Sept-Chutes Parc régional de la Forêt Ouareau Sentier national camping municipal du Lac Taureau Concernant le Parc Régional du Lac Taureau, l’interdiction d’accès demeure en vigueur de même que l’interdiction de circuler dans le territoire non organisé au-delà du km 9 du chemin Manawan. À noter que l’interdiction s’applique aussi pour l’accès nautique au camping du Parc régional du Lac Taureau, secteurs Baie-du -Poste, Baie-des-Embranchements, Baie-du-Milieu et les îles. L’AVIS D’INTERDICTION DE FEUX DEMEURE STRICTEMENT EN VIGUEUR SUR TOUT LE TERRITOIRE. Pour les parcs visés, les sentiers, campings et refuges sont donc ouverts. Nous vous demandons votre entière collaboration dans le respect de ces consignes et nous vous remercions pour votre compréhension. Bon séjour et soyez prudents! Dernière mise à jour7 juin 2023
Ngoài ra hệ sinh thái rừng ven biển này còn giúp ngăn bớt gió bão, sóng lớn … đối với vùng cát ven bờ. Trong chuyên mục Khoa học - Môi trường kỳ này, mời quí vị cùng trở lại với đề tài bảo tồn và khôi phục rừng ngập mặn tại Việt Nam hiện nay. Mất 80% diện tích rừng ngập mặn Có đến 80 phần trăm rừng ngập mặn của Việt Nam đã bị biến mất trong nửa thế kỷ qua. Đây là thông tin chính thức được công bố tại hội thảo diễn ra hồi ngày 27 tháng 3 vừa qua tại thành phố Đà Nẵng. Từ khoảng năm 43 - 45, chúng ta có diện tích khoảng 430 ngàn héc ta, bây giờ chỉ còn khoảng hơn 160 ngàn héc ta thôi, như thế mất 80% là đúng. TS Mai Sỹ Tuấn Hội thảo tập huấn báo chí về đầu tư cho các hệ sinh thái vùng bờ tổ chức do Trung tâm Đào tạo Truyền thông môi trường thuộc Tổng Cục Môi trường cùng phối hợp với các đơn vị quốc tế khác như Tổ chức Nghiên Cứu Lâm nghiệp Quốc tế, Tổ chức Minh bạch Quốc tế… Thực tế mất đến 80% rừng ngập mặn trong chừng nửa thế kỷ qua của Việt Nam được các chuyên gia cho nguyên nhân chủ yếu vì tình hình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, đô thị hóa, và cụ thể là phong trào nuôi tôm. PGS TS Mai Sỹ Tuấn, trưởng khoa Sinh học, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Rừng ngập mặn, thuộc Đại học Sư Phạm Hà Nội, nêu lại nguyên nhân tình trạng giảm thiểu hệ sinh thái rừng ngập mặn trong những năm qua tại Việt Nam như sau “Từ khoảng năm 43 - 45, chúng ta có diện tích khoảng 430 ngàn héc ta, bây giờ chỉ còn khoảng hơn 160 ngàn héc ta thôi, như thế mất 80% là đúng. Trong giai đoạn chiến tranh mất một phần lớn, nhưng sau chiến tranh khả năng phục hồi của rừng ngập mặn khá tốt. Hiện nay nguyên nhân chính dẫn đến mất rừng ngập mặn tại Việt Nam là do mâu thuẫn giữa khai thác phát triển kinh tế với bảo tồn. Điểm lớn nhất hiện nay là chuyển rừng ngập mặn sang nuôi trồng hải sản, nhất là nuôi tôm, ngao clam và một số khác…Trước đây nữa ở phía Bắc, chuyển rừng ngập mặn sang làm nông nghiệp…” Tuy nhiên trong những năm qua chính quyền Việt Nam cũng đã có chủ trương bảo tồn và phục hồi những hệ sinh thái rừng ngập mặn tại nhiều địa phương trong cả nước. Bên cạnh đó một số tổ chức phi chính phủ cũng hổ trợ cho Việt Nam trong công tác này. Hoạt động này được ông Mai Sỹ Tuấn trình bày như sau Rừng ngập mặn ở Phú Yên, ảnh chụp trước đây. Photo courtesy of vacne. “Lâu nay Nhà nước cũng nhận thấy, và đến gần đây nhận thấy tầm quan trọng của rừng ngập mặn không những đối với môi trường mà với vấn đề bảo vệ con người, phát triển kinh tế - xã hội nên Nhà Nước có đầu tư các dự án trồng rừng ngập mặn. Thế rồi những hội và các tổ chức phi chính phủ của nước ngoài, ví dụ Hội Chữ Thập Đỏ Đan Mạch, Hội Chữ Thập Đỏ Nhật Bản, các tổ chức của Đức, Quỹ Nhi Đồng Anh, Hội Nhà thờ Thế giới, Quaker Anh, Quaker Mỹ… Nhưng nói chung diện tích chuyển đổi chưa được mấy.” Một trong những khu vực được cho là cần thiết phải có hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển đó là dãi đất hẹp miền Trung của Việt Nam. Đây là khu vực được xem nằm trong ưu tiên trong công tác này. Một chuyên gia đang thực hiện dự án trồng rừng miền Trung, ông Phan Hồng Anh, phó trưởng ban nghiên cứu rừng ngập mặn của Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho biết về tình hình trồng rừng ngập mặn ở khu vực miền Trung “Thực ra cơ bản đất trồng rừng ở miền Trung bây giờ không còn nhiều. Những vùng trồng được thì trồng hết rồi, còn những vùng còn lại là vùng khó khăn’. Nếu trồng thì phải trồng theo phương pháp cải cách so với trước đây, phí đầu tư lớn. Những vùng bị hủy hoại bởi thiên nhiên, thiên tai, xói lở trồng rừng rất khó. Hiện nay nguyên nhân chính dẫn đến mất rừng ngập mặn tại Việt Nam là do mâu thuẫn giữa khai thác phát triển kinh tế với bảo tồn. TS Mai Sỹ Tuấn Trước đây kinh phí trồng cho một héc ta kinh phí khoảng từ 7-10 triệu; nay cả trăm triệu và hơn nữa, có những dự án phải mất 200 triệu một héc ta mới đạt được hiệu quả. Miền Trung khác so với những nơi khác do đồi núi lớn, độ dốc cao, lượng mưa xuống xói mòn nên các bãi bồi ven biển không nhiều. Diện tích rừng ngập mặn ở miền Trung từ Hà Tĩnh vào đến Ninh Thuận, Bình Thuận nhỏ. Có một số tỉnh chuyển sang nuôi tôm hết, và diện tích rải rác. Hiện chúng tôi đang tổ chức phục hồi lại những vùng đó, mà hiện nay mới khởi điểm ở Thanh Hóa. Dự án 200 héc ta ở Hậu Lộc, năm rồi mới trồng được 26 héc ta. Bình Định cũng đang được giúp với vườn ươm cây để sau này đưa ra trồng ở các tỉnh quanh trung trung bộ. Hiện nay chỉ đạo của cấp bộ cũng mới trong quá trình qui hoạch, đề xuất chứ để thực hiện dự án thì chưa có gì… Chủ yếu do NGOs, các tổ chức quốc tế tài trợ.” Nước đến chân, nhảy không kịp? Những nỗ lực trong hoạt động bảo tồn những khu rừng ngập mặn còn lại chỉ chừng 20 % so với 50 năm trước đây, rồi công tác trồng mới để khôi phục hệ sinh thái quan trọng này ra sao? Tiến sỹ Mai Sỹ Tuấn đánh giá Rừng ngập mặn ở Bình Thuận. Photo courtesy of VFEJ. “Các nhà khoa học như chúng tôi thấy hiệu quả chưa cao vì đất chuyển đổi sang nuôi trồng hải sản trước đây bị thoái hóa, biến đổi về môi trường; rồi lấn ra biển sớm quá làm phá vỡ qui luật tự nhiên. Cây trồng trên môi trường không thuận lợi thì hiệu quả không cao lắm. Phá rừng dễ, mà trồng lại không phải đạt hiệu quả cao. Chúng tôi hy vọng nếu chính phủ thực sự làm, và thực hiện khuyến cáo của các tổ chức phi chính phủ đồng ý chuyển trồng rừng phải giảm diện tích nuôi trồng hải sản, để trồng lên những vùng nuôi trồng hải sản không hiệu quả chứ không đưa xa ra biển…” Vậy những biện pháp cần thiết để có thể giúp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, khôi phục rừng ngập mặn ra sao? Tiến sỹ Mai Sỹ Tuấn đưa ra những công tác cần làm với một số ưu tiên hiện nay “Mục đích của chúng ta là phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn ở mọi nơi có thể được; nhưng nơi nào cần nhất thì phục hồi trước nhất. Chúng tôi mong muốn phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn ở miền Trung Việt Nam Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị… là những tỉnh luôn phải hứng chịu các điều kiện của gió bão. Trồng rừng ngập mặn ở những nơi đó khó nhưng nếu có kinh phí để trồng sẽ giúp đời sống người dân đỡ khó khăn hơn. Ngoài ra, tập trung phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn đang bị xói lở để bảo vệ lãnh thổ bờ biển ở các tỉnh như Sóc Trăng, Kiên Giang … cũng là ưu tiên tiên bao trùm là không để diện tích quí giá hiện nay giảm xuống. Mục đích của chúng ta là phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn ở mọi nơi có thể được; nhưng nơi nào cần nhất thì phục hồi trước nhất. TS Mai Sỹ Tuấn Nói thì đơn giản, nhưng mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển kinh tế vẫn cón; cho nên phải cần làm tốt công tác qui hoạch, tuyên truyền cho các cấp lãnh đạo và nhân dân địa phương để bảo tồn và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn.” Hồi đầu tháng ba vừa qua, Bộ Tài Nguyên - Môi trường Việt Nam cho công bố chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, nước biển dâng với bốn kịch bản. Với kịch bản nếu nước biển dâng 1 mét thí sẽ có đến 39% diện tích khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, trên 10% diện tích vùng đồng bằng Sông Hồng, Quảng Ninh và trên 2,5% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung, và trên 20% diện tích thành phố Hồ Chí Minh có nguy cơ ngập. Nếu mọi việc không được chuẩn bị ngay từ lúc này với những biện pháp tích cực mà trong đó là ngưng chạy theo lợi nhuận trước mắt, dành đất để trồng rừng ngập mặn ven biển như khuyến cáo của nhiều chuyên gia, thì đến khi nước đến chân’, không còn nhảy kịp. Mục Khoa học - Môi trường kỳ này tạm dừng tại đây. Hẹn gặp lại quí vị và các bạn trong chương trình kỳ tới. Gia Minh chào tạm biệt. Theo dòng thời sự Lợi ích của rừng ngập mặn Tết trồng cây gây rừng Tác động của biến đổi khí hậu với rừng ngập mặn Vấn đề phát triển bền vững sông Mêkông Vấn đề nguồn nước ở Việt Nam Tổng kết dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng Cây rừng kêu cứu
cây rừng ngập mặn