Giáo sư Trần Văn Khê sinh năm 1921 tại làng Vĩnh Kim, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang), là con cả của một gia đình có bốn đời nhạc sĩ. Từ lúc nhỏ ông đã tỏ ra là người có cảm nhận đặc biệt về âm nhạc; Lên 6 tuổi biết đàn kìm (đàn nguyệt), 8 tuổi biết đàn cò (đàn nhị), 12 tuổi biết đàn tranh, đánh trống nhạc
Khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà đúng nghĩa. Giáo sư Trần Đình Long. - Thưa Giáo sư, thời gian qua, một số chủ đầu tư điện mặt trời mái nhà đã gặp khó khăn trong việc "thanh toán" vì chưa đủ các điều kiện theo quy định. Đã có nhiều ý kiến tranh
Thầy giáo 31 tuổi bị ung thư gan do ăn loại thực phẩm nhiều người vẫn ăn mỗi sáng Bệnh thường gặp. Vì thường xuyên ăn loại thực phẩm này mà bệnh xơ gan của thầy giáo dần phát triển thành ung thư gan.
GS Trần Đình Sử là ai? Khi bộ sách giáo khoa lớp 1 bị truyền thông nhắm tới, người ta chú ý tới hội đồng thẩm định, trong đó GS Trần Đình Sử là Chủ tịch Hội đồng. Và thật bất ngờ khi vào fb ông này,
Người Việt đang mắc phải lỗi sai trong ăn uống. Theo PGS.TS.BS Trần Đình Toán, Viện trưởng Viện Dinh dưỡng lâm sàng, Uỷ viên Hội đồng dinh dưỡng và thuốc Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương trong 20 năm trở lại cơ cấu bệnh tật liên quan tới dinh dưỡng có sự thay đổi.. Các bệnh mãn tính không lây tăng.
PvKEjR9. Giáo sư Đinh Gia Khánh, người tiêu biểu cho nền học thuật của chế độ mới Trần Đình Sử Sau khi thế hệ các giáo sư thời trước vì các lí do chính trị rời khỏi các giảng đường đại học, nhiệm vụ xây dựng nền học thuật đại mới đặt trên vai một loạt các nhà khoa học đầy tài năng. Đó là các nhà sử học như Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Tấn…, các nhà ngôn ngữ học như Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Tuệ, Nguyễn Kim Thản..,các nhà nghiên cứu văn học như Đinh Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh, Lê Trí Viễn, Bùi Văn Nguyên, Lê Đình Kỵ, Huỳnh Lý, Nguyễn Lương Ngọc, Trương Chính…Thế hệ trẻ hơn như Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Đăng Mạnh,. … Họ là những người vừa tự học, vừa đặt nền móng cho hệ thống học thuật trong các trường đại học của chế độ mới. Trong số đó, giáo sư Đinh Gia Khánh là người đặt nền móng cho khoa văn học dân gian và văn học cổ. Cuộc đời học thuật của ông rất tiêu biểu cho thế hệ các nhà trì thức yếu nước đương thời. Học dở dang thì nghe theo tiếng gọi núi sông ra đi kháng chiến. Tham gia ngành giáo dục từ thấp đến cao, suốt đời tự học và trưởng thành cùng chế độ. Thời kì mà Giáo sư cho công bố các công trình cơ bản của mình cũng chính là lúc giáo sư Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng Bộ đại học và sự ra đời của nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp. Đó là lúc sự nghiệp đào tạo đại học nước ta đạt đến cực thịnh trong điều kiện chiến tranh. Đặc điểm của thế hệ học giả này là nồng nàn yêu nước, nắm vững và tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác – Lenin, đường lối văn học nghệ thuật của Đảng Cộng sản, giàu tinh thần chiến đấu chống các tư tưởng thực dân và tư sản, các tư tưởng xét lại. Mặc dù ông vốn là giáo sư dạy tiếng Anh, thông thạo tiếng Pháp, song các tài liệu, học thuyết tư sản phương Tây rất ít khi được ông sử dụng mà thường là đối tượng phê phán. Tư liệu trích dân của ông ngoài Mác, Ăng ghen, Lên nin, Nghị quyết, là Gorki và một số nhà folklore xô viết. Tuy vậy ông đã cố gắng vượt qua dần dần sự hạn hẹp thế giới quan của mình để xây dựng nền tảng học thuật. Đặc điểm nổi bật của giáo sư Đinh Gia Khánh là ông là người học rộng, uyên bác. Ông không chỉ làm chủ toàn bộ các tư liệu, thành quả nghiên cứu văn học dân gian rất phong phú của người đi trước và các học giả đương thời, mà ông còn làm chủ cả khối tư liệu văn học thành văn, từ chữ Hán đến chũ Nôm. Tự bản thân ông tham gia dịch thuật Lĩnh Nam chích quái, phiên âm, chú thích Thiên Nam ngữ lục dài trên 8000 câu lục bát, soạn sách Truyện hay nước Việt, chủ biên tập Hợp tuyển thơ văn Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII do ông viết Lời giới thiệu1962. Ông là người khởi xướng, chủ biên bộ lịch sử văn học Việt Nam, gồm Văn học dân gian 1972, văn học trung đại, gồm Văn học Việt Nam thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII cùng với các đồng nghiệp Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương1978, và tập tập Văn học Việt Nam nữa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX do Nguyễn Lộc viết, được tái bản nhiều lần. Ông cũng là người đề xuất và chủ tịch Hội đồng biên tập bộ sách Tổng tập văn học Việt Nam đồ sộ bậc nhất, gồm 42 tập, coi như một tập đại thành toàn bộ thành tựu nghiên cứu văn học Việt Nam dưới chế độ mới. Nhờ thế mà ông nổi hẳn lên so với nhiều đồng nghiệp khác ở tầm nhìn xa và tầm bao quát. Đinh Gia Khánh là người chứng kiến bước trưởng thành vượt bậc của ngành nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam cũng như ngành nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, trước sự xâm lăng của văn hóa và văn học Pháp, các trí thức yếu nước Việt Nam khởi đầu sưu tầm, nghiên cứu và phác thảo lịch sử văn học Việt Nam cùng các thể loại văn học dân gian Việt Nam. Các công trình văn học sử của Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi, Ngô Tất Tố, Bùi Hữu Sủng, Kiều Thanh Quế, Giản Chi…dù rất cố gắng tìm tòi, song do thiếu tư liệu và phương pháp luận cho nên còn nhiều hạn chế. Nói đến các tuyển tập văn học thì lại càng sơ lược, chủ yếu đáp ứng nhu cầu thưởng lãm và học tập ở trình độ trung học. Tác phẩm các tác giả lớn như Nguyễn Trai, Nguyễn Du đều chưa được phát hiện và phiên dịch. Sau năm 1954 một nhu cầu viết lại văn học sử dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác, song lúc đầu khó tránh sơ lược, giáo điều và dung tục. Phải gần 20 năm sau, trên cơ sở phiên âm, phiên dịch, bổ sung tư liệu, đẩy mạnh sưu tầm văn học dân gian người Việt và các dân tộc thiểu số, bấy giờ mới có điều kiện nhìn lại văn học sử cũng như văn học dân gian một cách khoa học và hệ thống. Ông là người hệ thống hóa văn học dân gian Việt Nam và đưa nó dần sang quỹ đạo văn hóa dân gian. Tôi nghĩ, trước năm 1945 nước ta chưa có thuật ngữ văn học dân gian, mà chỉ có thuật ngữ văn học truyền khẩu, văn học bình dân. Các sách của các học giả như Giản Chi, Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ đều chưa có khái niệm văn học dân gian nói chung, họ chỉ trình bày một số thể loại. Văn học dân gian là thuật ngữ Trung Quốc xuất hiện từ sau thời Ngũ Tứ 1919, nhưng nội hàm vẫn không ổn định. Ở họ từ Kinh Thi đã là văn học và cho đến nay vẫn là một bộ phận quan trọng của Văn học Tiên Tần. Cái khai niệm lục nghĩa phú, tỉ, hứng, phong, nhã, tụng làm cho nó văn học hóa và có lẽ Việt Nam tiếp thu khái niệm ấy từ sau năm 1950. Tất nhiên khái niệm văn học dân gian của các học giả Trung Quốc hiện đại rất phát triển, nhưng hồi xưa cũng còn thô sơ, chưa phân biệt với văn học thông tục, văn học bình dân. Giáo trình Đại học sư phạm năm 1961 nói đến văn học dân gian chỉ nói đến bắt nguồn từ lao động, phản ánh đời sống nhân dân, tính giai cấp…Có lẽ bắt đầu từ giáo sư Đinh Gia Khánh mới nhấn mạnh đầy đủ tính nguyên hợp và các tính chất khâc và chuyển dần sang văn hóa dân gian theo thông lệ quốc tế, nhưng vẫn giữ tính chất nghệ thuật ngôn từ dân gian, lấy đó làm cái cốt của văn học dân gian. Và hướng mở rộng này đã làm cho nghiên cứu văn hóa dân gian phát triển mạnh mẽ như ngày nay. Về nghiên cứu văn học dân gian ông cũng là người quan tâm nghiên cứu so sánh qua tác phẩm Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám 1968 và công trình Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á, 1993. Đó là những bước mở đầu rất đáng quý. Về văn học viết Việt Nam trung đại ông là người có cái nhìn bao quát trong bài lời nói đầu tập Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X đến thế kỉ XVII có tên Vài nét về văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII đã trình bày cụ thể tình hình phát triển của thể loại và tác phẩm văn học cụ thể. Trong Phần Mở đầu Mười thế kỉ của tiến trình văn học Việt và viết 15 chương sách trên tổng số 24 chương của cuốn giáo trình năm 1978. Đặc điểm nổi bất của giáo trình của Đinh Gia Khánh là sự phân tich cặn kẻ tình xã hội, điều kiện lịch sử, sự phân hóa gia cấp từng thời kì, mô tả tình hình trạng thái văn hóa xã hội, bao gồm tổ chức chính quyền, tổ chức việc học, các giai cấp xã hội các tôn giáo, các học thuyết thẩm thấu vào nhau, rồi sau đó mới đi sâu phân tích các tác phẩm văn học cụ thể như là sự phản ánh tinh thần của thời đại. Thiếu một vốn tri thức bậc thầy thì khó mà làm được các yêu cầu đó. Trong suốt thời trung đại điều ông thấm nhuần nhất là ảnh hưởng sâu sắc của văn học dân gian đối với sự hình thành và phát triển của văn học viết Việt Nam và khi phát triển văn học viết ảnh hưởng trở lại đối với văn học dân gian. Có thể nói đó là sự vân dụng đến mức mẫu mực của phương pháp nghiên cứu mác xít đương thời với ý thức duy vật rất tỉnh táo, tính chiến đấu chống mê tín, dị đoan rất cao, sự quán triệt các chỉ đạo của các văn kiện của Đảng rất chặt chẽ. Chỉ trong phần mở đầu của cuốn giáo trình đã có bốn trích dẫn văn kiện, mà đến thời Đổi mới, khi tái bản các phần đó đã được tác giả lược bỏ theo tinh thần Đổi mới 1998. Toàm bộ công tring khoa học của giáo sư phần lớn đều hoàn thành trước thời kì đổi mới, khi sự giaoluwu học thuật Đông Tây còn có nhiều hạn chế, tấ khó tránh khỏi các hạn chế lịch sử. Các hạn chế ấy, các học trò của giáo sư sẽ bù đắp, nhưng địa vị mở đầu của giáo sư là rất to lớn. Giáo sư Đinh Gia Khánh còn là người tôn trọng các quy phạm khoa học. Trong nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học trung đại, ông cũng như các nhà nghiên cứu khác chọn cách tính mốc bằng thế kỉ, mà không chọn các mốc theo triều đại như văn học Trung Quốc hay Nhật Bản. Các học giả Miền Nam cũng xét văn học trung đại theo “lịch triều”. Ví dụ, bộ văn học sử nổi tiếng của Phạm Thế Ngũ có hai phần Phần văn học truyền khẩu và phần văn học lịch triều. Cách tính mốc thế kỉ chó thể cho ta cái mẫu số chung để xem văn học Việt Nam trong bối cảnh thế giới. Đó là điều mà bộ Lịch sử văn học thế giới của các học giả Nga đã làm. Theo cái mốc đó ta có thể thấy vào thế kỉ XV, khi Nguyễn Trãi viết Quốc âm thi tập, ghi dấu sáng tạo văn học bằng ngôn ngữ dân tộc thì cũng là lúc Dante viết Thần Khúc bằng tiếng Ý, Chause viết bằng tiếng Anh và Grimenhausen sáng tác bằng tiếng Đức. Tính mốc thế kỉ có giá trị so sánh khi xét văn học Việt trong bối cảnh thế giới. Cách dùng thuật ngữ của giáo sư cũng mang tính mẫu mực. Cho đến lúc bầy giờ trong văn giới ta các khái niệm văn thơ, văn học, văn chương được dùng thay thế nhau coi như từ đồng nghĩa. Bộ sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam do nxb Văn Hóa in năm 1962 có thể coi là quy mô nhất, nhưng cải tên Hợp tuyển thơ văn là lặp lại cái tên sách của Dương Quảng Hàm Việt Nam thi văn hợp tuyển. Nguyễn Huệ Chi chủ biên bộ Thơ văn Lí Trần cũng lặp lại cái tên thơ văn. Điều thú vị là bìa ngoài cuốn hợp tuyển do Trần Đình Thọ trình bày ghi là Hợp tuyển thơ văn, nhưng bìa trong do Văn Cao trình bày thì lại ghi là Văn học Việt Nam. Tính chất nước đôi trong tên gọi chứng tỏ sự thiếu nhất quán về thuật ngữ. Sau này khi đề xuất ý tưởng làm bộ Tổng tập văn học Việt Nam, giáo sư Đinh Gia Khánh đã dứt khoát dùng từ văn học. Theo tôi, đó là cách dùng quy phạm, bởi vì tất cả các sách văn học sử Việt Nam từ trước 1945 đều viết là văn học, các tác phẩm đều là văn học, đó là cách gọi chuẩn hóa, quy phạm về mặt thuật ngữ. Văn học đây là từ dịch từ thuật ngữ literature trong tiếng Anh, thông dụng ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam đầu thế kỉ XX. Một học giả lớn, theo tôi nghĩ, không chỉ có cống hiến nhiều về các phát hiện khoa học, mà còn là người xác lập, tuân thủ các quy phạm khoa học. Riêng mặt này giáo sư cũng là bậc thầy của nhiều thế hệ. Hà Nội, nhày 3 tháng 10 năm 2013.
Khi bộ sách giáo khoa lớp 1 trở thành chủ đề bàn tán nhiều ngày qua, dư luận chú ý tới Hội đồng thẩm định, trong đó Giáo sư Trần Đình Sử là Chủ tịch Hội đồng. Và thật bất ngờ khi vào tài khoản FB mang tên ông, mới ngã ngửa ra là ông Sử lại có nhiều vấn đề phức tạp về tư tưởng, thậm chí có thể xếp vào hàng “tự diễn biến, tự chuyển hóa”. Tài khoản FB mang tên Trần Đình Sử đăng tải nhiều nội dung công kích chế độ. Giáo sư phản động Tại sao lại nói vậy? Lật lại lịch sử, Trần Đình Sử là một trong 72 kẻ nhân sĩ trí thức thoái hóa đòi sửa đổi Hiến pháp 1992, trong đó, đòi đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam CSVN, đòi đổi tên nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, đòi phi chính trị hóa các lực lượng vũ trang Nhân dân. Trần Đình Sử từng mượn tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hạ bệ chế độ và nền tư pháp của ta ngày nay. Cách đây mấy tháng, Trần Đình Sử còn công khai ủng hộ các đối tượng trong “tổ Đồng Thuận” và các luật sư bào chữa cho các bị cáo tại phiên tòa. Nếu thực sự tài khoản FB nói trên là của Giáo sư Trần Đình Sử, thành viên Hội đồng thẩm định bộ sách Giáo khoa lớp 1 đang gây tranh cãi trong những ngày vừa qua thì thật sự đáng lo ngại. Một giáo sư đầu ngành về giáo dục, viết sách, thẩm định sách cho cả một thế hệ mà có suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực như vậy, thử hỏi, chất lượng các sản phẩm của ông ta đến đâu, liệu có xứng đáng với hai chữ GIÁO SƯ hay không? Ông ta mở miệng là chửi bới Đảng, Nhà nước, nhưng lại quên rằng, mình được ăn học tử tế, trưởng thành từ đâu, ngoài mái trường Xã hội chủ nghĩa. Ăn cơm dân, mặc áo Đảng, được trọng dụng, phong danh hiệu Giáo sư, đâu phải để ông ta quay đầu chửi bới, đả kích trên mạng được chứ. Nếu muốn chống phá, thì hãy từ bỏ học hàm Giáo sư, từ bỏ ngành giáo, rồi hãy làm những gì ông muốn. Thêm một mang bài đăng mang tính công kích của tài khoản FB Trần Đình Sử. Giáo dục hay bất kỳ ngành nào cũng phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thế thì mới có được định hướng đúng, có thế thì mới không mơ hồ và bát nháo. Ông là Chủ tịch Hội đồng thẩm định sách Giáo khoa, hàm giáo sư mà tư duy, nhận thức ấu trĩ như thế, thảo nào mà sách Giáo khoa hiện nay chẳng khác nào mớ rau tập tàng, lẩu thập cẩm. Mấy năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện nhiều Phó Giáo sư, Tiến sỹ có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thường xuyên viết các bài viết có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước như trường hợp PGS Đỗ Ngọc Thống Vụ Giáo dục Trung học, PGS Nguyễn Hoàng Ánh Đại học Ngoại thương, Giáo sư Ngô Bảo Châu… Đây là những hạt sạn cần loại bỏ, không để làm vấy bẩn ngành giáo dục, hủy hoại thế hệ trẻ của đất nước. Sẽ ra sao nếu những người ngày ngày đứng trên giảng đường, giáo dục thế hệ trẻ lại mang trong đầu tư tưởng phản động, chống phá. “Giặc” ở ngay sau lưng “Giặc ở sau lưng” hay “nỏ thần đã trao tay giặc” rồi? Ngẫm câu chuyện xưa mà sao giá trị nó trường tồn đến thế. Vẫn biết rằng vẫn có những thế lực luôn tìm cách cài tay chân vào làm nội gián đánh phá từ bên trong ra nhằm hạ uy tín thể chế, chế độ đấy nhưng nó có thực hiện được ý đồ hay không lại là do chính thái độ và hành động chủ quan. Như trường hợp bộ sách giáo khoa đang gây bức xúc dư luận cũng chẳng khác câu chuyện nỏ thần là mấy. Việc có hay không ý đồ núp danh cải cách giáo dục và xã hội hóa biên soạn sách giáo khoa để phá hoại nền giáo dục thì còn phải chứng minh, nhưng để một tên chống Đảng, chửi chế độ như hát hay cầm trịch cả một Hội đồng thẩm định sách giáo khoa thì lại trúng ý đồ của chúng nó quá. Với vai trò thẩm định, chúng có thể yêu cầu các tác giả, nhà biên soạn điều chỉnh nội dung theo ý đồ nhằm đạt được mục đích phá hoại, từ những bộ sách có nội dung tốt có thể trở thành những bộ sách có nội dung xấu, không phù hợp thậm chí là dung tục; chúng có thể cố tình để lọt những bộ sách được soạn với mục đích gây khó cho hoạt động dạy và học cũng như gây phản ứng tiêu cực trong xã hội, làm nhiễu loạn dư luận, làm băng hoại niềm tin của quần chúng vào vai trò quản lý xã hội của Nhà nước… Ấy chính là chúng đã thực hiện được mưu đồ phá hoại. Có rất nhiều bài đăng chứa nội dung xuyên tạc. Sách giáo khoa là công cụ giáo dục và xây dựng nền tảng tri thức cho các thế hệ công dân là chủ tương lai của đất nước, nếu ví nó như cây nỏ thần hộ quốc thì việc giao cho những kẻ có tư tưởng phản loạn giữ vai trò thẩm định thì chẳng khác nào nỏ thần trao tay giặc. Là vô tình do kém hiểu biết hay cố ý làm loạn thì cũng đều phải làm cho rõ và xử cho nghiêm mới mong yên bề trị quốc. Mong rằng các cơ quan chức năng cần có biện pháp xử lý mạnh tay, không thể để những người mầm họa cho đất nước ở trong ngành giáo dục như vậy. Lê Dung Anh *Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả
Các giới hạn của nghịch dị D. Nicolaev Các vấn đề văn học, số 4 năm 1968 Trần Đình Sử lược dịch Sau khi có luận án của M. Bakhtin bàn về “chủ nghĩa hiện thực nghịch dị” giới lí luận Liên xô bắt đầu chú ý tới biện pháp nghệ thuật này. Trước đó người ta xem nghịch dị là một cái gì duy tâm, siêu hình. Sau 1925 Nedoshivin lần đầu chú ý tới nó, khẳng định vai trò của nó đối với chủ nghĩa hiện thực. Nó là hình thức phóng đại, khoa trương để biểu hiện hiện thực. Đây là quan điểm thời đó, luôn xem nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực. Thuật ngữ nghịch dị grotesque xuất hiện ở Ý vào cuối thế kỉ XV, Đầu tiên nó được dùng để chỉ các loại đồ án trang trí, cấu tạo bằng cách miêu tả kết hợp một cách kì dị các hình ảnh thú vật, thực vật và con người. Nhưng nghịch dị tồn tại trong nghệ thuật thì đã có từ lâu. M. Bakhtin trong Sáng tác Francoise Rabelaise và văn hoá Phục hưng và trung cổ M. 1965 đã viết Kiểu hình tương nghịch dị tức là một phương thức cấu tạo hình tượng là một kiểu cổ xưa nhất mà ta thường gặp trong thần thoại, trong nghệ thuật phỏng cổ của các dân tộc, trong đó có cả nghệ thuật tiền cổ điển của người Hy Lạp và La Mã cổ đại”. . Trong các nghệ thuật khác nhau nghịch dị đóng vai trò khác nhau. Từ các hiện tương đó có thể xác định nghịch dị là một nguyên tắc miêu tả hiện thực trong đó kết hợp một cách nhân tạo các sự vật thuộc các loại sinh vật khác nhau, phá vỡ sự giống như thật của mô phỏng đời sống, kết hợp những cái không thể kết hợp được.. Chỉ có một tiêu chí như thế thì ta mới có thể xác định dược tác phẩm nào là thuộc phạm trù nghịch dị và tác phẩm nào không phải.. Nghịch dị khác biệt với các phương thức cấu tạo hình tượng khác.. Chẳng hạn phân biệt với các loại cường điệu, khoa trương, mài sắc, nghịch lí, kì ảo, phi lí, hóm hỉnh. Chẳng hạn nhật kí người điên là nghịch lí chứ không phải là nghịch dị. Ghec sen có câu chuyện Bác sĩ Krupop phân biệt người điên và người thường, chỉ là nghịch lí, không phải nghịch dị. Nghịch lí là hiện tượng thuộc về logich, mới trông thì giống thật mà lại sai, hoặc mới thấy nhìn tưởng là sai mà thực ra là đúng.. Nghịch lí là làm cho gần gủi những cái vốn xa nhau, hoặc làm cho xa nhau những cái vốn là gần gủi.. Nghịch lí và Nghịch dị đều là biện pháp thể hiện hiện thực, nhưng khác nhau ở chỗ, nghịch lí tạo ra phối cảnh bất ngờ, đối với các sự vật bình thường nhưng thực chất không thủ tiêu tính bình thường của nó. Nghịch dị đi xa hơn. cấu tạo lại cái bình thường thành một cái dị thường, khác thường, đến mức không còn có tính bình thường nữa, trở thành kì quặc, cổ quái. Nghịch dị không chỉ đòi hỏi một cái nhìn bất ngờ đối với sự vật xung quanh, mà còn cải tạo lại hiện thực theo những kết hợp mà thực tế không thể có được. Nghịch dị và kì ảo. Nhà điện ảnh Nga Eyzenstein đặt câu hỏi Sức hấp dẫn của nghịch dị nằm ở đâu? Và trả lời Nó nằm ở chỗ không thể kết hợp được của các loại. Lại hỏi Nội dung chủ yếu của nghịch dị là gì? Và trả lời là sự kết hợp của những cái không thể kết hợp, hiện thực và kì ảo, sự lai ghép hai sự vật đối lập nhau. Chẳng hạn truyện Cái chậu vàng của Hoffman nữ nhân vật là người bán táo, nhưng đồng thời mụ là con quỷ. Nhân vật Ligorst trong đó là ông già giữ hồ sơ, nhưng ban đêm ông ta là một con ma trơi. Các kết hợp giữa hiện thực và kì ảo tạo ra tính đặc thù của nghich dị Xem Vấn đề văn học, số 1 năm 1968, tr. 106. Như vậy nghịch dị bao hàm cả kì ảo, nhưng không phải mọi kì ảo là nghịch dị. Ví dụ tiểu thuyết viễn tưởng là kì ảo, song không phải nghich dị. Nếu vào thời hiện đại mà ta bắt gặp một ông già cổ đại như ông Khottabit hay trên đường phố ta gặp người đàn bà lân tinh như của Maiakovski thì đó là nghịch dị, chứ không phải kì ảo. Vì ở đó kết hợp các không gian, thời gian không thể kết hợp nhau được. Như vậy nghịch dị là những sự kết hợp phi hiện thực. Về chức năng của nghịch dị so với các hình thức nghệ thuật ước lệ. Nedoshivin cho rằng nghịch dị là hình thức cực đoan nhất của các thủ pháp ước lệ. Quan niệm này rất phổ biến. Có ý kiến ngược lại, xem nghịch dị là một hình thức ngụ ý nói khác để phản ánh hiện thực ví dụ tranh cổ động miêu tả chú Sam với cái đầu là một quả bom. Trong văn học nghịch dị là hình thức cường điệu châm biếm. Ví dụ trong một phim hài của Charli Chaplin, người đào vàng đói quá đã đem nấu đôi giày để ăn. Anh ta ung dung mang khăn ăn, dùng cái nỉa quấn cái dây giày, chấm vào nước chấm để ăn, rồi dùng dao cắt từng miếng da giày, cuối cùng mút từng cái đinh giày như mút cái xương cá. Nhân vật Kovaliop của Gogol bị mất cái mũi là một mẫu mực của nghịch dị. Ju. Mann gọi đó là một giả thiết kì ảo. thường gặp trong văn học.. Ở đây cái kì ảo khám phá bản chất của con người mà trước đó bị che giấu. Trong vở kịch Cái bóng của E. Shvarez cái bóng từ giả con người mà đi và tồn tại độc lập. Đây cũng là giả thiết kì ảo. con cái bóng là một ẩn dụ. đại diện các lực lương đen tối và phản bội. Nó là một nghịch dị ngụ ý. Theo Ju. Mann thì nghịch dị là một hình thức đặc thù của ẩn dụ, nói theo một nghĩa khác, kiểu như thần công lí tay cầm cái cân, nhưng hai mắt bị bịt kín Bàn về nghịch dị trong văn học, Mascova, 1966, tr. 98 – 99. Ý này có thể không hoàn toàn đứng. Trước đây Lessing từng nói ngụ ý, phúng dụ allegoriemâu thuẫn với bản chất của nghệ thuật, vì nó không sáng tạo. Diderot cũng từng nói Bao giờ tôi cũng cho rằng phúng dụ là sản phẩm của một trí tuệ non kém, bất lực, không đủ sức làm phong phú mình bằng thực tại. Nhưng ở đây các tác giả chống lại phúng dụ của chủ nghĩa cổ điển. Vẫn có nhà văn nói ngược lại nhà văn Nga Korolenco nói với M. Gorki rằng Nếu allegorie mà hóm hỉnh thì rất hay chứ. Gorki cho rằng allegorie có thể chứa đựng những tư tưởng lớn lao. Vậy nghịch dị khác với phúng dụ nhưng không mâu thuẫn với nó, ngược lại chúng có thể kết hợp khăng khít với nhau. Nghịch dị kết hợp trong hình tượng hai hiện tượng không thể kết hợp được với nhau, ví như con lừa mang đầu người hay chim ưng mang đầu người hay ngược lại người mang đầu chim ưng. Phúng dụ chỉ là thay cái này bằng cái khác, con nghịch dị thi cái khác nhau là một thực tại mới. Cho nên không nên lẫn lộn. Kaizer thì cho rằng nghịch dị là một thế giới xa lạ, tả một sức mạnh xa lạ với con người và với tự nhiên, như là tự nó vốn thế. Cần thấy sự đa dạng của nghịch dị trong lịch sử văn học và trong các nghệ thuật cũng như trong các thể loại khác nhau. Có thể bản chất của nghịch dị là một sự song trùng luôn chứa đựng mâu thuẫn, thực hiện các chức năng của nghịch dị có thể là châm biếm, hài hước, bi kịch. Nghệ thuật nghịch dị đập tan tính như thật của phản ánh đời sống, cho phép sáng tạo tự do và đa dạng.
Lê Lưu Oanh GS. Trần Đình Sử không chỉ là nhà Thi pháp học như mọi người thường ghi nhận mà ông thực sự là một nhà Lý luận văn học. Người ta nghĩ ông là nhà Thi pháp học cũng bởi vì những công trình về thi pháp học của ông quá nổi tiếng. Ông đã kiên cường nỗ lực nghiên cứu trên các phương diện thi pháp tác giả, thi pháp giai đoạn văn học, thi pháp tác phẩm và hệ thống các khái niệm và phương thức nghiên cứu thi pháp, để ra đời bộ tứ đồ sộ Thi pháp thơ Tố Hữu 1987, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam 1999, Thi pháp Truyện Kiều 2002 và Dẫn luận Thi pháp học 1998, 2017, in đi in lại nhiều lần. Thi pháp học, thực sự là một con đường mới, một hướng đi mới đã gây nên ở Việt Nam một cơn sốt nghiên cứu văn học theo hướng thi pháp học, rầm rộ suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Nhưng bên cạnh đó, còn một hướng đi âm thầm và bền bỉ kéo dài gần 60 năm, tính từ khi ông bắt đầu giảng dạy Lí luận văn học LLVH ở Đại học năm 1966, đến tận hôm nay, 2020, một con đường đi gập ghềnh, đầy khó khăn. Khó vì đã có những quan điểm chỉ đạo trong một số văn kiện, sách báo mang tính định hướng của các cơ quan chủ quản thuộc nhà nước về những vấn đề LLVH, khó vì đã có những những vấn đề LLVH rất cơ bản nhưng đã được cố định hóa, chương trình hóa, dù còn khá sơ lược theo kiểu cơ sở, đại cương trong các Giáo trình LLVH hệ Đại học. Những vấn đề LLVH ấy, dù là những nguyên lí cơ bản mang tính đại cương, nhưng cũng ít được quan tâm thay đổi và nâng cao. Và đã mấy chục năm qua, tính từ 1960, chúng ngày càng trở nên cũ kỹ, khô cứng, giáo điều, ít sức sống, ít gắn với đời sống văn học thực sự. Trong điều kiện của một người giảng dạy LLVH ở đại học gần như bắt buộc phải có quan điểm của riêng mình về tất cả các nội dung LLVH cơ sở được đề cập đến trong một bộ giáo trình LLVH hệ Đại học, trong điều kiện cần phải nỗ lực nâng cao tiếp thu các vấn đề LLVH theo những nguồn tư liệu khác nhau trên thế giới, trong điều kiện bắt buộc phải thay đổi, nâng cao tính hiện đại của các vấn đề LLVH nảy sinh trong tiến trình vận động của thực tiễn văn hóa và văn học Việt Nam, Đình Sử luôn có ý thức nêu quan điểm riêng của mình, để dày công vun đắp nên một hệ thống những vấn đề LLVH ngày càng hiện đại, mới mẻ, tiếp cận với những trào lưu LLVH mới của thế giới với những ý tưởng riêng, độc đáo. Nếu tính trong lịch sử LLVH VN, điểm mặt người chuyên làm LLVH tức là những nhà nghiên cứu chuyên sâu về LLVH, viết sách LLVH, giới thiệu các khuynh hướng LLVH ở nước ngoài và vận dụng các quan điểm mang tính lí luận để nghiên cứu các hiện tượng văn học khoảng 40 năm nay, từ 1980 – 2020, có thể kể đến tên một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Trinh, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến, Phương Lựu, Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Lê Ngọc Trà, Huỳnh Như Phương, Trương Đăng Dung, Nguyễn Văn Dân, Trịnh Bá Đĩnh… Nhưng là người đã đặt ra các vấn đề LLVH, có tư duy lí luận và có những kiến giải tạo nên những ảnh hưởng sâu rộng trong nền LLVH nước nhà, phải kể đến Trần Đình Sử. Ông thực sự là một nhà LLVH khi luôn cố gắng giải quyết các vấn đề LLVH, xây dựng các khái niệm LLVH, có ý thức về tư duy lí luận và lập luận và ứng dụng lí luận. Điều này thể hiện trong các bộ giáo trình LLVH ông tham gia và chủ biên Giáo trình LLVH, tập 1. 2, 1986-1987, 2005; Giáo trình LLVH hệ Cao đẳng, tập 1. 2, 2003-2005, trong các công trình chuyên sâu về LLVH như Những thế giới nghệ thuật thơ, 1995 và Tự sự học, chủ biên, 2017, Lí luận và phê bình văn học, 1996; Văn học và thời gian, 2001, Trên đường biên của lí luận văn học, 2014, Văn học so sánh, 2020 và những công trình về Thi pháp học. Là người gắn bó với việc giảng dạy ĐH, SĐH và hướng dẫn luận án TS, gần 60 năm qua, ông đã phải bàn đến khá nhiều vấn đề của nền LLVH nước nhà, qua nhiều giai đoạn, từ giai đoạn tiếp thu trực tiếp LLVH của Liên xô những năm 1960 – 1980, đến giai đoạn có những tiếp thu nguồn LLVH nước ngoài một cách sâu rộng sau thời kỳ Đổi mới từ 1986 đến nay, khi nhận thấy nội dung của hệ thống LLVH VN còn nhiều chỗ đơn giản, chưa hợp lý, cần đối thoại và phát triển. Đó là các vấn đề như phản ánh luận, ý thức hệ xã hội, văn học và hiện thực, đặc trưng văn học, hình tượng nghệ thuật, tư duy nghệ thuật, tiếp nhận văn học, văn bản và tác phẩm, ngôn ngữ văn học, phương pháp sáng tác, bản sắc dân tộc của văn học, kiểu sáng tác văn học và tiến trình vận động của văn học, lịch sử sáng tạo một tác phẩm văn học, diễn ngôn văn học…Đây là những vấn đề mà ông đã nhận thấy những hạn chế của sự gợi ý từ lí thuyết Xô viết và luôn muốn vượt ra khỏi, diễn giải lại, trình bày lại một số nhân tố trong lí thuyết truyền thống và diễn giải theo tinh thần tri thức mới. Đầu tiên, cần phải nhắc đến các bộ giáo trình LLVH cho hệ ĐH. Những người thực sự bắt buộc phải quan tâm, phải có trách nhiệm viết nên những bộ giáo trình này không nhiều. Nếu những năm 1960-1970, đội ngũ này còn khá đông, có thể kể đến như Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Văn Bính, Hà Minh Đức, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình, Lê Bá Hán, Phương Lựu, thì đến những năm 1980 – 1990, có Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, sang đến những năm 2000, chủ chốt chỉ còn Phương Lựu và Trần Đình Sử. Tuy nhiên, Trần Đình Sử chỉ là chủ biên Tập 2 của giáo trình LLVH 1987, 2005 và chủ biên của giáo trình LLVH hệ Cao đẳng 2003-2005. Trong những phần đó, nỗ lực của ông để đổi mới giáo trình LLVH cũng là những đóng góp đáng ghi nhận. Có lúc, ông tâm sự với chúng tôi, về giáo trình LLVH, người Việt Nam mình thường có tư tưởng tự ti, không nghĩ người VN làm được LLVH, cho nên thường chỉ dừng lại ở sự sao chép nói chung. Có thể nói, các giáo trình LLVH, nếu không có tư tưởng mới thì sẽ không có LLVH mới. Còn các sách LLVH của ta, thực sự ít có gì mới mẻ, bởi làm LLVH rất khó. Người giới thiệu lí thuyết thì nhiều, nhưng để vận dụng vào nghiên cứu một hiện tượng văn học Việt Nam thì gần như không có. Người Việt vốn không có tư duy lí luận, tư duy phản tư, suy nghĩ thật sâu sắc một vấn đề, không chỉ LLVH. Ở một số luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ, vấn đề LLVH đặt ra và giải quyết mới chỉ như những thử nghiệm ban đầu trong nhà trường. Còn gần như không có các bước nâng cao tiếp theo… Đúng vậy! Hơn nữa, những người có trách nhiệm phải viết giáo trình quá ít, kể cả hệ thống giảng viên các trường ĐH có dạy môn LLVH. Chẳng ai nghĩ rằng cần phải viết giáo trình, trừ những người được Bộ Giáo dục hoặc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trước đây, hoặc trường ĐH mà họ là giảng viên, trao trách nhiệm, bắt buộc họ phải viết. Thực sự, hệ thống giáo trình này cũng không cần quá nhiều, nhưng nếu mỗi trường ĐH có chuyên ngành Văn có một bộ, độc đáo, khác hẳn nhau thì sẽ có những cơ hội mở ra nhiều hướng đi của LLVH VN. Tuy nhiên, vì là giáo trình, nên có những nội dung phụ thuộc vào chương trình mang tính pháp lệnh, nên cũng có cái khó nhất định đối với người viết sách mang tính LLVH kiểu nâng cao, ai có nhu cầu và khả năng thì quan tâm. Thực sự loại sách này có rất ít. Thuần túy lí luận chay thì ít ai cần. Còn tự đưa ra lí thuyết và ứng dụng vào các hiện tượng văn học, vào phê bình văn học đã có mấy ai. Nhưng trong tình thế ấy, Trần Đình Sử vẫn có những đóng góp riêng khi ông được tham gia viết giáo trình LLVH nói riêng và chủ động viết sách LL nói là người đưa ra vấn đề LLVH, giải quyết vấn đề và áp dụng vào một số hiện tượng văn học VN với khá nhiều ý tưởng mới lạ. Ngay từ lúc mới vào nghề, từ 1966, Trần Đình Sử đã luôn trăn trở với các vấn đề LLVH được đặt ra từ những năm 1950 với các bộ sách Nguyên lí, Cơ sở LLVH chủ yếu tiếp thu từ nền LLVH Xô viết của Abramovich, Timofeev. Từ thời đó, ông cùng một số giáo viên khác đã cảm nhận được sự sơ lược và và thiếu sức thuyết phục của nhiều nguyên lý văn học trong các giáo trình Xô viết và Việt Nam thời đó, nhưng hoàn cảnh lại chưa cho phép bất cứ thay đổi nào. Ông cứ một mình, cầm mẫn học hỏi, suy nghĩ, cần mẫn viết, cố gắng diễn đạt cho hết những suy nghĩ, biện luận, minh chứng của thế, ông đã viết một tiểu luận về Đặc trưng văn học, dày đến 100 trang đánh máy, trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ ác liệt nhất 1967 – 1972, trong hoàn cảnh ở nơi sơ tán của Đại học Sư phạm Vinh, đường sá xa xôi, chả có tư liệu tham khảo gì mấy. Vậy mà đến hôm nay, khi đọc lại những phần này, chúng tôi không khỏi kinh ngạc khi nhận thấy, với tuổi đời còn rất trẻ, chưa đến 30 tuổi, mà ông đã có những suy nghĩ đi trước thời đại với những suy ngẫm sâu sắc. Để nói lý do của việc viết tiểu luận này, gần đây, 2019, chính ông đã bộc bạch “Đây là bài viết của tôi năm 1972 tại khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh, khi còn sơ tán ở Lăng Thành, Yên Thành Nghệ An. Đặc trưng văn học là khái niệm trung tâm của lí luận văn học. Bất mãn với lí thuyết thịnh hành đương thời, tôi tìm cách hiểu khác, vận dụng kí hiệu học, quan hệ chủ thể và khách thể, mĩ học tiếp nhận, đột phá nhận thức luận. Tôi đã nhìn đặc trưng văn học từ quan hệ chủ thể khách thể, xuyên suốt từ nhận thức đến thể hiện trong chất liệu, tạo ra một hệ thống thuật ngữ của riêng mình, phê phán triệt để quan niệm hình tượng thịnh hành lúc ấy trong các giáo trình. Với niềm say mê trẻ trung tôi không chỉ phê phán giáo trình lí luận văn học Việt Nam đương thời, mà còn phê phán cả lập luận giáo điều của Borev, Timofeev, đồng thời đưa ra lí thuyết của mình. Bây giờ nhìn lại không phải không có nhiều chỗ độc đáo còn đọc được. Tất nhiên bài viết không tránh khỏi những non nớt, ấu trĩ của một thời”Phần nói đầu cho tiểu luận Đặc trưng văn học – bản đánh máy. Trong tiểu luận này, ông đã đề cập đến các vấn đề cụ thể của hình tượng văn học với những góc độ khác, mới mẻ hơn. Ông say sưalập luận, minh giải cho ý tưởng của mình để thấy được hình tượng nghệ thuật không chỉ là số cộng của những sự thống nhất đơn giản như giáo trình hiện hành đang trình bày, mà có rất nhiều đặc tính quan trọng khác thể nghiệm và hư cấu, cái thấy được, cái không thấy được, tính sinh động nghệ thuật của hình tượng, sự thống nhất giữa những hình thức nghệ thuật cảm tính và ý thức của nghệ sĩ….Ông dựa vào một luận đề hoàn toàn mới, tức dựa vào lí thuyết hai hệ thống kí hiệu của văn học. Một là kí hiệu của giaotiếp bằng ngôn ngữ, hai là giao tiếp qua tạo hình phi ngôn ngữ như múa, âm nhạc, hội họa, nghĩa là qua tạo hình mà nhận ra thông tin. Xưa nay người ta nghiên cứu văn học thường dựa vào hai lý do sau ngôn ngữ tạo hình tức hình tượng, ngôn ngữ tự nhiên tức ngôn từ. Vì vậy chú ý hình tượng ở cấp độ tạo hình là con đường nghiên cứu cơ bản… Cách viết thật say sưa, sôi nổi, ý tưởng dạt dào. Những ý tưởng này sau đó được ông phát triển tiếp trong bài viết về Hình tượng văn học1984, và trong phần Đặc trưng của tư duy nghệ thuật và cấu trúc chỉnh thể của hình tượng nghệ thuật của giáo trình LLVH 1987, và vẫn được suy ngẫm trong bài viết Về phạm trù hình tượng văn học 2003 in trong Lý luận và phê bình văn đó cho thấy, cùng một vấn đề khoa học, có lúc tưởng chừng như cạn nghĩa, nhưng với nhiều cách tiếp cận khác nhau, vẫn luôn có được những ý tưởng mới mẻ, giàu sức thuyết hai bộ giáo trình LLVH hệ ĐH 1987 và 2005 và hệ cao đẳng 2003- 2005, ông đã đưa vào giáo trình nhiều quan điểm mới, hiện đại trên tất cả các nội dung cơ bản, từ đặc trưng đối tượng và nội dung văn học, tư duy nghệ thuật, cấu trúc hình tượng, ngôn từ như chất liệu của văn học, tiếp nhận văn học,đến văn bản, ngôn từ nghệ thuật, các loại hình nhân vật, các kiểu cốt truyện, cốt truyện và truyện kể…Có những nội dung rất mới mẻ so với thời điểm xuất hiện ở VN. Thí dụ, từ 1986, ông đã đưa Lí thuyết về tiếp nhận vào chương trình LLVH, mà thời điểm ấy, ở VN, chưa có mấy ai thực sự hiểu nó. Để nêu ra được các vấn đề LLVH này vào nhà trường, ông đã có những kiến thức và lập luận rất sắc sảo. Những đóng góp của ông về tư duy nghệ thuật, về cấu trúc hình tượng, cấu trúc nhân vật, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật,tính phi vật thể của hình tượng văn học… là những vấn đề cho đến tận hôm nay, chưa có ai vượt được ông trên phương diện nội dung giáo trình LLVH. Là những người trực tiếp giảng dạy LLVH ở bậc ĐH, chúng tôi thực sự đánh giá cao các bộ giáo trình này về mặt cập nhật kiến thức hiện đại và sự thuyết phục của hệ thống lập luận, vừa ở những quan điểm, vừa ở những thí dụ được phân tích. Ngoài ra, ở hệ SĐH vàđào tạo Tiến sĩ, ông còn có những chuyên đề như Thi pháp học, Văn học so sánh, Đặc trưng văn học, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Di sản Bakhtin…Mong muốn của ông là trình bày được những thành tựu mới nhất của LLVH thế giới, trên hai nguồn tài liệu từ Nga và Trung Quốc. Những nội dung được ông đề cập đến trong các bộ giáo trình và các chuyên đề, là những cố gắng lớn của ông trong việc ngày càng nâng cao hệ thống LLVH trong nước để có thể tiếp cận dần đến trình độ LLVH của thế giới. Sau khi ra mắt cuốn Văn học so sánh 2019, ông đang chuẩn bị cho nội dung cuốn Quá trình văn học. Chúng tôi rất hy vọng vào điều này. Bởi sách của ông, dù là giáo trình đại học nhưng không hề lạc hậu với nền LLVH trên thế giới. Gần như tất cả các vấn đề mới mẻ của LLVH thế giới đều đã ít nhiều được ông đề cập đến. Là một nhà LLVH, ông là người đưa ra rất nhiều những khái niệm LLVH mới, có những khái niệm thuộc về khái niệm chung như quan niệm nghệ thuật về con người, thế giới nghệ thuật, cái nhìn nghệ thuật, mô hình tự sự, tính mơ hồ, đa nghĩa của ngôn ngữ nghệ thuật, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ thân thể…, nhưng cũng có những khái niệm xuất phát từ những nghiên cứu một tác gia, tác phẩm, giai đoạn văn học cụ thể như thơ trữ tình chính trị, giọng điệu quyền uy, tiểu thuyết đời tư, chữ thân trong truyện Kiều, trữ tình điệu nói, diễn ngôn lí luận …Tất cả những khái niệm đó đều có những nội hàm mới mới mẻ, có sức thuyết phục, được các thế hệ đi sau dễ dàng sử dụng, coi như là những nội dung có tính chất phương pháp được dùng chìa khóa mới để đi vào tìm hiểu tác phẩm, tác giả và giai đoạnvăn học. Trong các luận án TS mà ông hướng dẫn thành công, có thể thấy, với mỗi luận án, ông đã cố gắng cùng nghiên cứu sinh tìm hiểu kỹ càng một khái niệm LLVH, từ quan niệm nghệ thuật về con người, cái tôi trữ tình, biểu trưng nghệ thuật, hoàn cảnh nghệ thuật, diễn ngôn tiểu thuyết, trò chơi nghệ thuật… đến kết cấu trữ tình, giọng điệu trữ tình,giọng điệu trần thuật, diễn ngôn tiểu thuyết, diễn ngôn lí luận phê bình… Những khái niệm này trở thành cơ sở lý thuyết để các NCS khảo sát về mặt thực tiễn văn học. Vì vậy, các luận án ông hướng dẫn về sau đều in được thành sách, làm hành trang nghiên cứu văn học bước đầu cho các nhà nghiên cứu LLVH thế hệ sau. Đóng góp để xây dựng đội ngũ này của ông thật không hề nhỏ. Chứng kiến quá trình hướng dẫn luận án TS của ông, suốt 30 mươi năm ở Bộ môn LLVH, ĐHSPHN, có thể nói, ông thực sự là một nhà LLVH có tư tưởng, không chỉ ở chỗ ông có một kiến văn rộng rãi, tiếp thu được nhiều nguồn LLVH mới của thế giới, mà với mỗi công trình LLVH của ông, dù có khi mới ở bậc luận án tiến sĩ do ông hướng dẫn, ông đều mong muốn xác lập lí thuyết, triển khai hệ thống lí thuyết, vận dụng vào một hiện tượng văn học cụ thể. Vừa tiếp thu lí thuyết từ nước ngoài, ông vừa cố gắng chuyển hóa những lí thuyết đó thành của riêng khi hệ thống lại, lập luận lại, tìm thí dụ trên những hiện tượng văn học nước nhà một cách khá thuyết phục. Khi hướng dẫn tôi làm luận án về Cái tôi trữ tình1994, ông đã dựa vào lý thuyết của nhà tâm lý học Vunt, để đưa ra mấy tiêu chí nhận biết về cái tôi nói chung làm tiền đề cho lý thuyết về cái tôi trữ tình, mà thực sự trước đó ở Việt Nam chưa có ai đề cập. Tôi nhớ, khi bài báo Cái tôi và hình tượng trữ tình của ông ra đời có sự tham gia của tôi – LLOanh, năm 1993, đăng trên báo Văn nghệ, GS Phan Trọng Luận đã bảo tôi chắc GS Luận tưởng tôi viết là chính Bài viết giỏi lắm, nhưng hơi uyên bác quá ! . Còn ai đã chứng kiến những buổi thảo luận về các luận án TS ở bộ môn LLVH ĐHSPHN, ở đó ông không chỉ nhận xét về nội dung khoa học của các luận án khác, mà còn phải bảo vệ cho tư tưởng chính của luận án ông hướng dẫn, mới thấy ông là nhà LLVH luôn nhất quán nhiệt tình bảo vệ cho những quan điểm của mình. Ông không chỉ lo cho luận án ông hướng dẫn mà còn quan tâm đến những luận án khác của Bộ môn. Luận án nào có khó khăn, ông đều tìm cách giúp tháo gỡ, không kể luận án do ông hướng dẫn hay người khác hướng dẫn. Học trò cứ tìm đến ông là ông trình bày hiểu biết của mình như rút hết gan ruột. Cũng dưới sự hướng dẫn, góp ý của ông mà những luận án của bộ môn LLVH trong nhiều năm qua đã không tách rời các hướng nghiên cứu văn học mang tính thời sự, mà còn luôn gắn bó với đời sống văn học và đời sống thực tiễn của đất nước. Có thể kể đến những luận án như Tiểu thuyết VN đương đại, nhìn từ góc độ diễn ngôn,Lí thuyết trò chơi và một số hiện tượng thơ VN đương đại,Sự chuyển đổi diễn ngôn lí luận phê bình văn học VN từ thời kì đổi mới đến nay, Phê bình văn học VN 1945 -1986,Văn xuôi VN sau 1986 dưới góc nhìn phê bình sinh thái.. Không chỉ dừng lại ở những vấn đề LLVH trong nhà trường, ông còn luôn nâng cao các vấn đề LLVH thể hiện qua cácchuyên luận, qua các bài tranh luận trên báo chí… Ông đã có 3 cuốn Lí luận và phê bình văn học, 1996; Văn học và thời gian, 2001, Trên đường biên của lí luận văn học, 2014, tuyển những bài chuyên về LLVH, cả về phê bình văn học. Trong ba cuốn sách này, ông tập trung vào các vấn đề LLVH nảy sinh từ nhà trường cho đến các vấn đề nảy sinh trong giao lưu ý tưởng LLVH trong đời sống xã hội. Vẫn là những trăn trở củamột nhà LLVH, khi ông nhận thấy “cả đời đã được đào tạo trong môi trường lí thuyết cũ, bao nhiêu năm tuổi trẻ dành đọc các lí thuyết xơ cứng, đã nhận thấy những hạn chế của lí thuyết xô viết và tìm cách diễn giải lại”, ông đã “cố gắng tìm hiểu trình bày lại một số khái niệm cơ bản trên tinh thần khẳng định các nhân tố hợp lí trong lí thuyết truyền thống và diễn giải lại theo tinh thần tri thức mới” Lời nói đầu cuốn Trên đường biên của LLVH. Có những khái niệm, những vấn đề mà theo những tài liệu hiện hành ở VN thì tưởng chừng như cạn nghĩa, nhưng dưới suy nghĩ của ông, còn rất nhiều điều còn cần phải bàn đến như Tính nhân loại của văn học, Ý thức về cá tính,Bản sắc dân tộc của văn học, Ngôn ngữ thơ, Ngôn ngữ nghệ thuật, Phản ánh luận, Ý thức hệ, Văn học và hiện thực …Những ý kiến và quan điểm được trình bày luôn mang tính đối thoại với những ý tưởng cũ. Bên cạnh đó là nhũng vấn đề hoàn toàn mới như Hệ hình mới của lí luận, Cấu trúc đối thoại, Văn học là tư duy về cái khả nhiên, Tính kí hiệu của hình tượng văn học, Bước ngoặt diễn ngôn và chuyển đổi hệ hình trong nghiên cứu văn học…Ba cuốn sách này, đặc biệt là cuốn Trên đường biên của lí luận văn học, đều được giới chuyên môn đánh giá cao như những hiện tượng nổi bật của LLVH VN những năm gần đây. Trước đó, với Những thế giới nghệ thuật thơ, ông đã tổng kết, khái quát về một số các loại hình thơ ca cơ bản như thơ cổ điển, thơ lãng mạn, thơ tượng trưng, thơ cách mạng. Các loại hình thơ ca được trình bày có hệ thống, được phân tích toàn diện, có rất nhiều thí dụ thuyết phục, rất có ý nghĩa với những người quan tâm đến sự tổng kết mang tính lịch sử về thơ ca, không chỉ VN mà còn cả trên thế giới. Về Tự sự học, một trong những hướng đi của nghiên cứu văn học thế giới, mới du nhập vào VN khoảng 20 năm nay, ông đã chủ trì hai Hội nghị khoa học toàn quốc năm 2001 và 2009, tập hợp thành hai cuốn kỉ yếu Tự sự học- những vấn đề lí luận và thực tiễn in năm 2006 và 2010, được dư luận đánh giá là hai cuốn sách có những giới thiệu về Tự sự học mà ai ở VNquan tâm về Tự sự học không thể bỏ cũng để nâng cao hơn nữa về việc giới thiệu cũng như thực hành Tự sự học, ông đã cùng nhóm nghiên cứu cho ra đời Tự sự học – Lí thuyết và ứng dụng,2017, giới thiệu một cách có hệ thống những nội dung cơ bản và mới mẻ nhất của Tự sự học trên thế giới và VN. Theo ông, lí thuyết là để vận dụng. Vì vậy ông hầu như ít giới thiệu mà đưa ra một hệ thống lý thuyết của riêng mình, kết hợp nhiều quan niệm của các nhà khoa học đi vận dụng LLVH trong những công trình về thi pháp học của ông là những minh chứng thành công về phương diện này. *** Cuộc đời con người vừa dài vừa ngắn! Ngẫm nghĩ lại, đời người quá dài vì tám mươi năm trải qua bao nhiêu thăng trầm, chứng kiến bao biến thiên của đất nước, thời cuộc, có thể làm được bao nhiêu việc, để lại cho đời bao điều có giá trị. Nhưng cuộc đời cũng quá ngắn vì con người còn muốn làm bao nhiêu việc có ích cho đời nữa. Nhân dịp GS. Trần Đình Sử tròn tám mươi xuân, chúng tôi, những kẻ hậu sinh xin chúc GS., nhà LLVH, nhà thi pháp học, vẫn tiếp tục cống hiến cho nền LLVH của Việt Nam những sản phẩm tinh thần luôn ở dạng đỉnh cao mà khó có ai vượt qua được!. 29/3/2020
About Trần Đình Sử Giáo sư tiến sĩ Lý luận văn học, khoa Ngữ Văn, Đại học sư phạm Hà Nội ĐỌC TÁC PHẨM VĂN HỌC TỪ GÓC ĐỘ KÍ HIỆU HỌC Trần Đình Sử Do quan niệm văn học phản ánh hiện thực được hiểu giản đơn thô thiển một thời, bản chất kí hiệu của tác phẩm văn học bị che giấu, và như thế , mỗi khi đọc tác … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized ĐỌC THƠ TRỮ TÌNH TỪ GÓC ĐỘ KIẾN TẠO BÀI THƠ Trần Đình Sử Hàng ngày chúng ta vẫn giao lưu với nhau bằng tiếng nóí và chúng ta tự hiểu. Sở dĩ thế là vì chúng ta đã có năng lực sử dụng tiếng nói mà chúng ta giao tiếp. … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ – SỰ TOẢ SÁNG CỦA CÁI ĐẸP VÀ LƯƠNG TRI NƠI NGỤC TỐI Vang bóng một thời là tập truyện ngắn được coi là kiệt tác trong văn học Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, Chữ người tử tù là truyện ngắn xuất sắc nhất của tập truyện. Đọc truyện ngắn … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized VAI TRÒ SÁNG TẠO VĂN HOÁCỦA VĂN HỌC Nói tới văn hoá của một dân tộc không ai là không nghĩ tới văn học, bởi văn học có một vị trí không thể thiếu trong mỗi nền văn hoá. Tuy nhiên trong một thời gian dài do nhu … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized NGUYỄN DỮ VÀ TIÊN THOẠI TRUNG QUỐC QUA TRUYỆN TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN Nghiên cứu văn học so sánh giữa văn học cổ Việt Nam và văn học cổ Trung Quốc đang là một đề tài ngày càng được nhiều người quan tâm, cả trong nước lẫn ngoài nước. Đó là điều hợp … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VINH VÀ BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỦA TÔI Trần Đình Sử Tại sao tôi đi theo nghề văn? Hồi tưởng lại những năm tháng đầu đời, có lẽ đó là một bí ẩn của số phận. Chúng tôi yêu thích văn, nhưng chưa hề có ý thức học … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized HẦU NHƯ TOÀN BỘ LÍ TUYẾT VĂN HỌC CÁCH MẠNG VIỆT NAM LÀ KẾ THỪA CỦA LÍ THUYẾT MẶT TRẬN CÁNH TẢ VÀ VĂN HỌC VÔ SẢN LIÊN XÔ NHỮNG NĂM 30. CHỈ CẦN ĐỌC MỘT ĐOẠN DƯỚI ĐÂY LÀ RÕ. Trần Đình Sử trích dịch sách Tiến trình văn học trong bối cảnh văn hóa-lịch sử của E. Chernoivanenco, Odessa, Maijak, 1997, tr. 414-418. Năm 1928, nhà phê bình văn học xô viết V. N. Fritsche 1870-1929 đã viết “Chúng … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized GOLDBLATT HOWARD NÓI VỀ TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI Trần Đình Sử thuật và bình luận Howard là nhà Hán học nổi tiếng người Mĩ, là người dịch văn học Trung Quốc, đặc biệt ông đã dịch tiểu thuyết Vú to mông lớn của Mạc ngôn, khiến cho tác … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized ĐỌC BÀI THƠ TIẾNG THU CỦA LƯU TRỌNG LƯ Để minh họa việc đọc một bài thơ xuất phát từ văn bản chúng tôi chọn bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, bởi vì hiện có những cách hiểu khác nhau, và ngôn ngữ là thử thách hàng đầu để … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized Đọc tự sự Đọc tự sự cũng là đọc văn học nói chung, cần tuân thủ các cách đọc thông dụng. Đã có ba quan niệm về đọc văn học trong truyền thống. Một là đọc để tìm ra ý đồ tư tưởng … Tiếp tục đọc → Đăng tải tại Uncategorized
giáo sư trần đình sử